MỐI QUAN HỆ GIỮA CUNG VÀ CẦU CỦA DLST
CUNG
DLST
Loại
1: là nơi có các hoạt động du lịch mà
cách ứng xử với môi trường tự nhiên mới
chỉ ở mức độ tuân thủ theo các quy định của pháp luật hiện hành.
Loại
2: bao gồm những nơi được xây dựng thiết
kế gắn với thiên nhiên, môi trường hơn, thể hiện qua tính nhạy cảm của các điểm
các cụm có mật độ thấp, ít sử dụng thiết kế và các vật liệu hạn chế tầm quan
sát, gây ảnh hưởng đến môi trường. Tuy nhiên vẫn cung cấp đầy đủ tiện nghi, dịch
vụ và hoạt động của 1 khu du lịch truyền thống. Phản ánh việc chấp nhận tầm
quan trọng của môi trường hơn là thực tiễn của du lịch sinh thái.
Loại
3: là nơi du khách có cơ hội tham quan môi
trường còn hoang sơ , nguyên vẹn, nơi các sản phẩm theo dung nghĩa đen đưa con
người ngược lại với thực tế tự nhiên. Các cơ sở lưu trú tiện nghi với hạn chế tối
đa tác đa tác động tới môi trường được xem là tiêu chuẩn.
Loại
4: là nơi thiên nhiện được xem là hàng đầu để nghỉ ngơi và giáo dục với nổ lực tang cường trực tiếp ý
thức bảo tồn và gìn giữ môi trường. VD: VQG, khu bảo tồn thiên nhiên.
Loại
5: dành cho du khách thám hiểm đến các
vùng thiên nhiên xa xôi còn hoang sơ.
Các chương trình du lịch được thiết kế nhằm hướng tới nâng cao nhận thức, tính
nhạy cảm và bảo tồn môi trường tự nhiên
và văn hóa.
CẦU DLST
Loại
A:
Khách du lịch thiên nhiên tình cờ, ngẫu nhiên do 1 phần của chuyến du lịch
lớn có lien quan đến thiên nhiên.
Loại
B: loại khách du lịch thiên nhiên chiếm số
đông. Họ là những người muốn tham gia vào những
chuyến du lịch lạ thường đến với
thiên nhiên.
Loại
C: Là những khách du lịch có lòng say mê
thiên nhiên. Họ luôn muốn có được những chuyến đi đến những nơi đặc trưng như
các VQG, các khu bảo tồn thiên nhiên tham quan và tìm hiểu tự nhiên, lịch sử và
văn hóa bản địa.
Loại
D: Là những khách du lịch thiên nhiên thực
thụ. Họ có thể là các nhà khoa học ,
thành viên các tour du lịch giáo dục hoặc thành viên của các dự án bảo tồn.
NHU
CẦU DU LỊCH
Khái
niệm:
Nhu
cầu du lịch là sự mong muốn
của con người đi đến một nơi khác với nơi ở thường xuyên của mình để có được những
xúc cảm mới, trải nghiệm mới, hiểu biết mới, để phát triển các mối quan hệ xã hội,
phục hồi sức khoẻ, tạo sự thoải mái dẽ chịu về tinh thần.
Nhu
cầu du lịch sinh thái:
là sự mong muốn của con người đi du lịch tiếp cận với các hệ sinh thái tự
nhiên, nhân văn để thưởng thưởng thức,
chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ diệu sinh động của thế giới tự nhiên, tìm hiểu những điều
kỳ thú và thiết thực hơn là phát triển các mối quan hệ xã hội, phục hồi sức khoẻ,
tạo sự thoải mái dẽ chịu về tinh thần tránh sự ô nhiễm môi trường và đô thị hóa
ngày càng tăng.
Phân
loại nhu cầu
Nhu
cầu bị kìm chế
Nhu cầu bị kìm chế là nhu cầu của một bộ phận dân cư
muốn đi du lịch nhưng không thực hiện được vì một lý do nào đó về : vận chuyển,
lưu trú và ăn uống , sức khỏe,thời gian nhàn rỗi.
Nhu
cầu bị trì hoãn: bao gồm những
người đã có nhu cầu đi du lịch nhưng chuyến đi của ho bị hoãn lại do các nguyên
nhân khách quan xuất hiện trong một thời gian ngắn như: hoan cảnh gia đình, khó
khăn trở ngại từ phía cung (thiếu phòng ngủ, thiếu phương tiện vận chuỵển, thời
tiết xấu,...) hoăc do cơ chế chính sách của nước nơi khách du lịch cư trú. Nhu
cầu thuộc bộ phận này sẽ trở thành nhu cầu thực tế trong tương m gần khi các
nguyên nhân khách quan được loại trừ.
Nhu
cầu đặc trưng là những nhu cầu
xác định mục đích chính của chuyến'đi, ví dụ nhu cầu nghỉ dưỡng, tham quan, giải
trí, thăm viếng, tham gia lễ hội, học tập nghiên cứu,...
Nhu
cầu bổ sung là những nhu cầu
chưa định hình trước, nó phát sinh trong chuyến hành trình du lịch như: thông
tin, tư vấn, mua sắm...
Nhu
cầu tiềm tàng: bao gồm những
người thích đi du lịch nhưng chưa cố khả năng thực hiện do những nguyên nhân chủ
quan. Những người này sẽ đi du lịch trong tương lai khi thu nhập của họ tăng
lên hoặc họ cố thời gian rảnh rỗi nhiều hơn.
Ngoài
ra, nhu cầu trong du lịch
còn có thể được phân loại theo một số cách thức khác. Chẳng hạn, nó được phân
chia thành 3 nhóm: nhu cầu có khả năng thay thế, nhu cầu được định hướng lại và
nhu cầu mới phát sinh.
NHẬN
XÉT –VD VỀ CUNG- CẦU DU LỊCH
1.KDL
sinh thái Suối Mơ: Nằm ở phường Long Bình, quận 9, Tp. Hồ Chí
Minh, khu du lịch Suối Mơ đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn trong những ngày
nghỉ cuối tuần của cư dân thành phố và vùng phụ cận Ðồng Nai, Bình Dương... Khu
du lịch có lợi thế nằm gần công viên Việt Nam Water World, Con Nai Vàng, lại có
nhiều tiết mục mới lạ như biểu diễn cá heo, sư tử biển, hải cẩu nên Suối Mơ rất
có sức hấp dẫn đối với du khách.
Thỏa
mãn nhu cầu: thời gian nhàn rỗi,vận chuyển,khám phá, phục hồi sức khoẻ, tạo sự thoải mái dẽ
chịu về tinh thần tránh sự ô nhiễm môi trường và đô thị hóa ngày càng tăng của
người dân sống ở thành phố.
Thực
trạng quy hoạch, phát triển:
Cung cấp các dịch vụ như hồ bơi, câu cá, cắm trại,
chơi tenis, thưởng thức đặc sản... Suối Mơ đang phủ thêm hàng chục hécta cây
xanh trên những phần đất còn lại để mở rộng khu cắm trại và phát triển một số
loại hình giải trí cảm giác mạnh khác.
Nhận
xét: Mặc dù, KDL
sinh thái Suối Mơ có nhiều tiềm năng phát triển du lịch sinh thái nhưng việc
đặt lợi nhuận thu được từ khai thác du lịch sinh thái lên hang đầu mà bất chấp
hệ quả, sẽ càng ngày làm mất dần đi, thậm chí là biến chất những đặc trưng cơ bản
vốn có để thu hút khách du lịch sinh thái bền vững.Nói một cách cụ thể rõ ràng
ban đầu khu du lịch này định hướng thỏa mãn nhu cầu nghĩ dưỡng tránh đi sự ồn
ào náo nhiệt ở thành phố lớn để hòa nhập với thiên nhiên nhưng trong tương lai
lại định hướng phát triển thành khu vui chơi giải trí – có nghĩa là yếu tố sinh
thái sẽ dần bị thay thế bởi yếu tố giải trí. Tương lai sẽ trở thành những khu
vui chơi giải trí giống như Đầm Sen, Suối Tiên – có lợi thế giữa trung tâm
thành phố, có quy mô lớn. Dẫn đến khó phát triển bền vững được.
2.Vườn
quốc gia Cát Tiên
Cát Tiên thuộc địa
phận của ba tỉnh Ðồng Nai, Bình Phước và Lâm Ðồng. Cách thành phố Hồ Chí Minh
150 km về phía Bắc.
Thỏa mãn nhu cầu:
khám phá, hòa nhập
với thiên nhien với hệ thực vật phong phú với rừng có nhiều cây cổ thụ như bằng
lăng, gỗ đỏ. Hệ thực vật có hàng ngàn loài thực vật bậc cao, hơn 400 loài cây gỗ
quý, hàng trăm loại cây dược liệu, hơn 100 loài hoa phong lan... Về động vật có
hàng trăm loài chim, có những loài chim quý hiếm như trĩ lông đỏ, cò quắm xanh,
tê giác một sừng, voi...
Nhận xét: Việc lợi ích về kinh tế nhờ phát triển du lịch sinh
thái là quá ít so với những mục tiệu đã đề ra là bảo vệ môi trường và giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Quy mô và hình thức hoạt động du lịch sinh thái ở VQG Cát Tiên còn đơn điệu, mờ nhạt, sản
phẩm và đối tượng thị trường còn chưa rõ nên ít có khả năng thu hút khách. Các
hoạt động du lịch sinh thái hiện nay chưa đa dang, phong phú mà mới chỉ dưới dạng:
nghiên cứu, tìm hiểu các hệ sinh thái; tham quan, tìm hiểu đời sống động thực vật
hoang dã, và văn hóa bản địa.
Chất lượng dịch vụ du lịch sinh thái còn nhiều hạn
chế, các khâu quảng bá, tiếp thị cho VQG
Cát Tiên còn yếu nên chưa thu hút được nhiều khách du
lịch trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động du lịch sinh thái và lợi ích
mang lại từ du lịch sinh thái cho người dân còn chưa được cao.
Công tác đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ điều
hành quản lý, hướng dẫn viên du lịch sinh thái còn chưa đáp ứng được nhu cầu của
khách du lịch về những nhu cầu tiềm tàng, nhu cầu bổ sung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét