Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2016

THUYẾT TRÌNH MIỀN TRUNG BỘ

THUYẾT TRÌNH MIỀN TRUNG BỘ

Khí hậu Trung Bộ được chia ra làm hai khu vực chính là Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Nam Trung Bộ.
Khu vực Bắc Trung Bộ (bao gồm toàn bộ phía Bắc đèo Hải Vân). Vào mùa đông, do gió mùa thổi theo hướng Đông Bắc mang theo hơi nước từ biển vào nên toàn khu vực chịu ảnh hưởng của thời tiết lạnh kèm theo mưa. Đây là điểm khác biệt với thời tiết khô hanh vào mùa Đông vùng Bắc Bộ. Đến mùa Hè không còn hơi nước từ biển vào nhưng có thêm gió mùa Tây Nam (còn gọi là gió Lào) thổi ngược lên gây nên thời tiết khô nóng, vào thời điểm này nhiệt độ ngày có thể lên tới trên 40độC, trong khi đó độ ẩm không khí lại rất thấp.[3]
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (bao gồm khu vực đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ thuộc phía Nam đèo Hải Vân). Gió mùa Đông Bắc khi thổi đến đây thường suy yếu đi do bị chặn lại bởi dãy Bạch Mã. Vì vậy khi về mùa hè khi xuất hiện gió mùa Tây Namthổi mạnh từ vịnh Thái Lan và tràn qua dãy núi Trường Sơn sẽ gây ra thời tiết khô nóng cho toàn bộ khu vực.[4]
Đặc điểm nổi bật của khí hậu Trung Bộ là có mùa mưa và mùa khô không cùng xảy ra vào một thời kỳ trong năm của hai vùng khí hậu Bắc Bộ và Nam Bộ.
THIÊN NHIÊN KHẮC NGHIỆT: HẠN HÁN-LŨ LỤT.
Thừa Thiên - Huế là một trong các tỉnh có lượng mưa nhiều nhất ở Việt Nam với lượng mưa trung bình năm vượt trên 2.600mm, có nơi lên đến 4.000mm
Hàng năm có từ 200 - 220 ngày mưa ở các vùng núi, 150 - 170 ngày mưa ở khu vực đồng bằng duyên hải. Vào mùa mưa, mỗi tháng có 16 - 24 ngày mưa. Những đợt mưa kéo dài nhiều ngày trên diện rộng thường gây ra lũ lụt lớn.
Với lượng mưa chiếm 68 - 75% lượng mưa trong năm, sẽ phát sinh lũ lụt lớn và gây thiệt hại sản xuất, tài sản, tính mạng cư dân, tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái. Ngược lại, trong mùa ít mưa thì nước lại không đủ cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất của một số địa phương trong vùng.
Mùa mưa lũ ở Bắc Trung Bộ thường xảy ra từ tháng 7 đến tháng 10, ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ thường xảy ra từ tháng 10 đến tháng 12. Những trận lũ lụt lớn đã xảy ra ở miền Trung .



HỆ THỐNG SÔNG,NÚI, BIỂN

·         Sông Mã: Bắt nguồn từ Điện Biên, cháy qua Sơn La, Sầm Nưa (Lào) rồi về địa phận Thanh Hóa theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, cùng với phụ lưu sông Chu tạo thành hệ thống sông Mã, bồi đắp đồng bằng Thanh Hóa là đồng bằng lớn nhất Miền Trung Việt Nam và thứ 3 ở Việt Nam.
·         Sông Thu Bồn: Bắt nguồn từ núi Ngọc Linh (giáp giới hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum), dài 95 km, chảy trên địa phận tỉnh Quảng Nam.
·         Sông Lam: Bắt nguồn từ Nậm Căn (Lào), dài 513 km, chảy qua Nghệ An theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, đổ ra biển Đông tạicửa Hội.
·         Sông Hương (còn gọi là Hương Giang): Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, dài 30 km đoạn từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An, chảy qua thành phố Huế ở tỉnh Thừa Thiên-Huế sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng.
·         Bãi biển Cửa Lò: Thuộc thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Bãi biển Cửa Lò là một trong những bãi tắm đẹp ở Việt Nam, nằm giữa quần thể du lịch - văn hóa của xứ Nghệ.
·         Bãi biển Sầm Sơn: Thuộc thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bãi biển Sầm Sơn do người Pháp khai thác từ năm 1906 và đã nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi tiếng của Ðông Dương.
·         Biển Nhật Lệ : Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình -bãi tắm tuyệt đẹp với nền cát trắng phau và dòng nước biển trong xanh giữa trời-mây-non-nước hữu tình
·         Thiên Cầm: Nằm ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Từ đầu thế kỷ 20, người Pháp đã cho xây dựng Thiên Cầm thành một khu nghỉ mát.
CAC DAI NUI:

Dãy núi Trường Sơn là dãy núi dài nhất Việt NamLào, dài khoảng 1.100 km. Tên của dãy núi trong tiếng LàoPhu Luông.
Dải Trường Sơn kéo dài từ thượng nguồn sông Cả trên đất Lào giáp Nghệ An tới tận cực nam Trung Bộ. Nó bao gồm toàn bộ các dãy núi nhỏ hơn ở Bắc Trung Bộ và các khối núi, cao nguyên Nam Trung Bộ, xếp thành hình cánh cung lớn mà mặt lồi quay ra Biển Đông.
Trường Sơn được chia thành Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam, ngăn cách bởi đèo Hải Vânnúi Bạch Mã.
Là chứng nhân lịch sử gắn liền cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Thiên hạ đệ nhất hùng quang đèo Hải Vân luôn luôn là một địa danh ấn tượng. Đây là đèo cao nhất trong các đèo ở Việt Nam (khoảng 500m so với mực nước biển), đầy hiểm trở và cũng là đỉnh núi cuối cùng của một mạch Trường Sơn đâm ngang ra biển. Trong Phủ Biên tạp lục, Lê Quý Đôn từng nhận xét: Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc từng mây là giới hạn của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.

II.LỊCH SỬ và XÃ HỘI
1059, o Đaị Việt,  Quảng Bình thuộc về nhà lý.
1336, Châu ô ,Châu lý-Quảng Trị, Thưà Thiên Huế ngày nay thuộc nhà Trần
1470, Vùng đất núi Thạch Bi -Phú Yên trở ra thuộc nhà Lê.
-
1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hoá.
Chiến tranh Trịnh -Nguyễn, đất nước bị chia cắt thành Đàng trong, Đàng ngoài. Kinh đô nhà Nguyễn là vùng Phú Xuân.
1778, Nguyễn Huệ lên ngôi , đất nước thống nhất trên cơ bản,
1802,dựa trên thế lực phương Tây, Nguyễn Ánh đánh bại triều Tây Sơn.
Từ 1802-1945, kinh đô ở Huế.
Như vậy, miền Trung có một thời ít nhất ba vương triều.
Trải qua tiến trình lịch sử, Trung bộ là trạm trung chuyển,đất đứng chân để Việt tiến về phiá Nam mở cõi, laị là vùng biên viễn Đaị Việt nơi diễn ra sự gia lưu trực tiếp giữa người Việt và người Chăm.
Chính những đặc điểm tự nhiên xã hôị , lịch sử này đã tạo cho vùng văn hoá Trung Bộ những đặc điểm riêng so với các vùng văn hoá khác của Việt Nam.
Văn hóa
Trung Bộ, ngoại trừ Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, từng là nơi định cư của các tiểu vương quốc Chăm-pa. Vì vậy đặc điểm căn bản văn hoá vùng miền chủ yếu mang dấu tích của văn hoá Chăm-pa.
Nhiều di sản văn hoá hữu thể còn tồn tại từ thời đó đến nay như tháp ChămHuế, tháp Đôi Liễu, Cốc Thượng, Núi Rùa ở Quảng Nam, Đà Nẵng được xem như những đại diện tiêu biểu cho các giai đoạn phát triển nghệ thuậtkiến trúc đối với lịch sử của nền văn hoá Trung Bộ.
So sánh với 2 vùng Bắc BộNam Bộ thì Trung Bộ thể hiện rõ nét là một vùng đệm mang tính trung gian. Nơi đây phần nào đã chịu sự ảnh hưởng từ các yếu tố tự nhiên là núi non, biển, sông ngòi, các đầm và đồng bằng, vào trong các thành tố văn hoá vùng.
 Dọc miền Trung, nhiều di sản văn hóa hữu thể còn tồn tại trên mặt đất. Đó là các tháp Chăm phơi sương gió cùng năm tháng.
Lịch sử đi qua bao nỗi thăng trầm, cuộc đời phải trải qua bao cơn dâu bể, tháp Chăm vẫn sừng sững như một dấu ấn không thể phai mờ. ở Huế, theo tác giả Trần Đại Vinh, còn tháp đôi Liễu, Cốc Thượng, tháp Núi Rùa.
 ở Bình Dương có tháp Phước Lộc, tháp Cánh Tiên, tháp Bánh ít, tháp Bình Lâm, tháp Thủ Thiện, ba ngôi tháp Dương Long; hai ngôi tháp ở Hưng Thạnh.
 ở tỉnh Phú yên có tháp Nhạn;
 ở Khánh Hòa có tháp Pô Nagar; ở Ninh thuận có cụm tháp Hòa Lai, cụm tháp Núi Trầm;
ở Bình Thuận có tháp pô Đam (hay Pô Tấm), tháp Phú Hải.
Có thể nói khó có vùng văn hóa nào ở nước ta lại có nhiều tháp Chăm như vùng văn hóa Trung Bộ.Ngoài các tháp, di vật văn hóa Chăm-pa còn trên mặt đất, trong lòng đất khá nhiều. Đó là các tượng bà Pô Nagar, tượng Chó, đặc biệt là các tượng linga, yoni.
Linga (tiếng Phạn: लिङ्गं liṅgaṃ, có nghĩa là "dấu hiệu") là một biểu tượng thờ phụng của vị thần Ấn Độ giáo Shiva. Tuy nguồn gốc của nó chưa được xác định, biểu tượng thờ phụng này ở Ấn Độ đã được sử dụng ít nhất là từ thời kỳ đầu của nền văn minh thung lũng sông Ấn. Đây là một trong hai vật thờ linh thiêng (cùng với yoni) của người Chăm.
·         Linga tượng trưng cho dương tính, có hình khối trụ đặt trên yoni (hình khối vuông, đại diện cho âm khí) trong chính điện của các tháp Chăm.
·         Linga và yoni biểu thị cho tính âm-dương kết hợp, tạo ra sự hủy diệt và tái sinh của vũ trụ.
Tín ngưỡng dân gian

 Đó là các phù điêu, các trụ đá, các bia đá v.v...Cùng các di sản văn hóa hữu thể, vùng Trung Bộ còn khá nhiều các di sản văn hóa vô thể của văn hóa Chăm pa. Đó là các địa danh Việt mà chúng ta có quyền ngờ rằng, gốc tích của nó phải là các địa danh Chăm, kiểu như Cồn Ràng, Cồn Lồi, Cồn Mọi. Đó là các tín ngưỡng dân gian của người Chăm như thờ bà mẹ xứ sở, thờ cá voi, thờ thần biển .v.v...


Truyền thuyết
Theo người Chăm
Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa bà vào bến sông Yjatran[1] ở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió hương liền nổi dậy báo cho muôn loài biết tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước bà.
Khi bà bước lên bờ, thì cây cong xuống để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân bà đi. Rồi nữ thần Poh Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp…
Nhiều phép thuật, bà cũng rất nhiều chồng. Nơi hậu cung của bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng bà chỉ sinh được 38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người được bà truyền nhiều quyền phép, đó là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih (cả hai được người dân vùng Phan Rang tôn thờ) và Pô Bia Tikuk. (được người dân Phan Thiết tôn thờ).
Đến khi đất Kauthara thuộc về người Việt, thì nữ thần Poh Nagar cũng trở thành vị nữ thần của người Việt với tên gọi là Thiên Y A Na và sự tích của bà cũng được Việt hóa.
Tuy những lời kể có đôi nét khác nhau, nhưng đại để như sau:
Xưa kia tại núi Đại An (nay là Đại Điền), có hai vợ chồng tiều phu già không con, trồng rẫy dưa. Dưa chín, thường bị hái trộm. Rình rập, một đêm ông lão bắt được thủ phạm. Khi biết được kẻ hái là một cô gái nhỏ xinh đẹp nhưng mồ côi, ông liền mang về nuôi. Không ngờ, cô gái ấy vốn là tiên nữ, vì lí do nào đó, phải giáng trần!
Một hôm, mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều, khiến tiên nữ thêm nhớ cảnh tiên xưa. Cho nên, cô lấy đá và hoa lá tạo thành một hòn giả sơn (hònnon bộ). Cho rằng việc làm đó không thích hợp đối với một phụ nữ, nên người cha nuôi có nặng lời quở mắng. Vì vậy, nhân thấy một khúc kì nam đang trôi dạt, cô bèn biến thân vào khúc cây ấy, để xuôi ra biển cả rồi tấp vào bờ biển nước Trung Hoa.
Mùi hương từ khúc kì nam lan tỏa khắp nơi, khiến nhiều người đến xem, nhưng không một ai nhấc lên nổi. Thái tử nước ấy, nghe tin đồn tìm đến, rồi nhẹ nhàng vác khúc gỗ kia mang về cung. Đêm nọ, Thái tử thấy có bóng người lạ ẩn hiện từ khúc cây kì nam. Rình rập mấy đêm, thì chàng bắt được. Nghe cô gái xinh đẹp tự xưng mình là Thiên Y A Na và khi nghe chuyện của nàng xong, ngay hôm sau, Thái tử đã tâu với vua cha cho phép cưới nàng làm vợ. Sống với Thái tử, Thiên Y A Na sinh được một trai đặt tên là Tri và một gái đặt tên là Quí.
Một hôm, Thiên Y A Na nhớ cảnh cũ người xưa, bèn dắt hai con nhập vào khúc kì nam, vượt biển trở về cố quốc. Khi biết cha mẹ nuôi đã mất, bà cho xây đắp mồ mả, cho sửa sang lại nhà cửa để có chỗ thờ phụng hai ông bà. Thấy dân chúng ở Đại An hãy còn thật thà, chất phác; bà liền đem những gì học được ở quê chồng, như phép tắc, lễ nghi ra chỉ dạy và dạy cả những việc như cày cấy, kéo sợi dệt vải... để người dân quê mình biết cách mưu sinh.
Ít lâu sau, một con chim hạc từ trên mây cao bay xuống, rước bà và hai con về cõi tiên. Nhớ ơn đức, nhân dân địa phương cùng nhau xây tháp, tạc tượng phụng thờ.
Khi đến Đại An, không tin Thiên Y A Na và hai con đã rời bỏ cõi tục, bộ hạ của Thái tử đã tra khảo người dân rất dữ, vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con bà. Bị oan ức và đau đớn, nhiều người dân đã thắp hương cúng vái bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá bay...và toàn bộ những người đến từ phương Bắc đều bị cát vùi thây, thuyền bè của họ cũng bị đá đánh chìm hết…
Theo lời người xưa truyền lại, thì những cụm đá ở trước cửa tháp Bà (tức tháp Po Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông Cù, là những viên đá đã đánh đắm cả đoàn thuyền vừa kể.[2] Sự tích này đã được Kinh lược Phan Thanh Giản chép lại thành bài kí, khắc lên bia đá, dựng sau tháp Bà ở Nha Trang vào năm Tự Đức thứ 9 (1856).
Ngoài ra, vào năm 1925, bác sĩ Sallet chép lời người dân địa phương kể lại, thêm thắt vài chi tiết, đề có một sự tích nữa, tóm gọn như sau:
Một Thái tử Trung Hoa qua Việt Nam tìm vợ, gặp khúc trầm to, muốn đưa lên thuyền, nên cho lính chặt ra làm ba khúc. Tức thì, giông bão nổi lên làm đắm thuyền. Khúc trầm trôi ngược vào sông, tấp vào khu vườn ở làng Bình Thủy (Phan Rí). Do được báo mộng, chủ vườn thức dậy, thì thấy khúc trầm to có ghi chữ Thiên Y (Thiên Y A Na) và hai khúc trầm nhỏ (hai đứa con), và ông đã đem lên cất miếu thờ. Lâu ngày, gỗ trầm hóa đá.
Lại truyền tụng thêm một câu chuyện khác, theo nhà văn Sơn Nam, đó là ngày xưa "có một phú thương người Hoa thử mua hoặc đánh tráo khúc trầm, đưa lên ghe chở về Tàu, thì giông tố liền nổi lên, khiến thuyền phải quày về chỗ cũ".[3]
Tuy nhiên, hai sự tích ghi sau, ít được phổ biến.
PHONG TUC:

Tục thờ Cá Ông xuất nguồn từ tục thờ Cá Ông của người Chăm. Tuy nhiên, trải qua sự bản địa hóa, tục thờ cá Ông trở thành tín ngưỡng của người Việt và cả người Hoa.
·         Đối với người Chăm, Cá Ông là một vị thần của Biển Đông được nhân dân kính cẩn.
·         Đối với người Việt và người Hoa, Cá Ông chính là mảnh pháp y (áo choàng sau) của Quan Thế Âm (hay Nam Hải Bồ tát) quăng xuống biển để cứu giúp cư dân vùng biển trong cơn giông tố giữa biển.
Mục đích của tục thờ cá Ông hình thành để cầu yên cho các ngư thuyền ra khơi đánh cá và mong được mẻ cá lớn. Tục này thời Gia Long đã thành lệ.

Từ bao đời nay, người dân làm nghề biển giã rất sùng kính cá Voi, coi đó là một vị thần tối cao luôn cứu giúp họ khi gặp hoạn nạn trên biển cả. Trong các đình làng biển ở Khánh Hòa, ngoài bàn thờ Tiền hiền, Hậu hiền còn có bàn thờ Ông Nam Hải (tức cá Voi). Vào tháng 3 hoặc tháng 7 âm lịch hàng năm, ngư dân thường tổ chức lễ hội cầu ngư với mục đích cầu Ông Nam Hải ban cho một mùa cá bội thu và phù hộ dân làng được bình an, mạnh khỏe.
VĂN HOÁ NÔNG NGHIỆP KẾT HỢP NGƯ NGHIỆP
Ẩm thực miền Trung bình dị và dân dã
Mảnh đất Miền Trung vốn cằn cỗi là thế và cũng không được thiên nhiên ưu ái như các vùng đất khác, chính vì vậy, con người nơi đây luôn biết trân trọng và biến những sản vật tuyệt vời đó thành những món ăn mang những hương vị rất riêng, mà ai đã một lần thưởng thức nó sẽ không thể nào quên.

 Ẩm thực Miền Trung có một chiều sâu riêng, mang đậm nét bản sắc của một vùng đất thanh lịch, nhẹ nhàng; rất phong phú, mỗi địa phương đều có những đặc sản riêng, mang đậm bản sắc phong phú và hương vị của từng nơi thế nên đặc sản miền Trung cũng nhiều vô kể.
Đồ ăn miền Trung với tất cả tính chất đặc sắc của nó thể hiện qua hương vị riêng biệt, nhiều món ăn cay và mặn hơn đồ ăn miền Bắc và miền Nam, màu sắc được phối trộn phong phú, rực rỡ, thiên về màu đỏ và nâu sậm. Các tỉnh thành miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Định, Bình Thuận rất nổi tiếng với mắm tôm chua và các loại mắm ruốc. Đặc biệt, ẩm thực Huế do ảnh hưởng từ phong cách ẩm thực hoàng gia, cho nên rất cầu kỳ trong chế biến và trình bày. Một mặt khác, do địa phương không có nhiều sản vật mà ẩm thựchoàng gia lại đòi hỏi số lượng lớn món, nên mỗi loại nguyên liệu đều được chế biến rất đa dạng với trong nhiều món khác nhau.
2. Tiểu vùng văn hóa xứ Huế :
Thiên nhiên đã tạo cho xứ Huế có một diện mạo riêng. Đó là một vùng Huế núi đồi mà nhà Nguyễn cùng sức muôn dân đã tạo ra một khu lăng tẩm đế vương. Đó là một vùng Huế cồn bãi đôi bờ Hương Giang cùng các nhánh sông Bạch Yến, An Cựu, Kim Long (nay đã bị lấp nhiều).
 Nói khác đi xứ Huế là vùng thiên nhiên đa dạng : có rừng, có biển, có núi, lại có cả đồng bằng.

Mặt khác, lịch sử lại đem đến cho vùng đất có một số phận đặc biệt. Từ chỗ là phên giậu của Đại Việt, nơi địa đầu giao lưu với Chăm-pa đến chỗ thành dinh của chúa Nguyễn, rồi kinh đô của vương triều Tây Sơn, kinh sư, thượng kinh của nhà Nguyễn. Chính những điều kiện tự nhiên và biến đổi lịch sử ấy in dấu vào đời sống văn hóa vật chất lẫn tinh thần của xứ Huế, tạo cho nó một gương mặt riêng ...

Nói tới xứ Huế là nói tới một hệ kinh thành còn giữ được tương đối hoàn chỉnh với hoàng thành, tử cấm thành, điện Thái Hòa, Long An, Ngọ Môn .v.v.., đồng thời cũng nói tới hệ lăng tẩm với những lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.v.v..,

và cũng nói tới một hệ chùa đền như tháp Thiên Mụ, điện Hòn Chén, chùa Từ Đàm, Túy Vân, Diệu Đế.

Tất cả những di sản văn hóa vật thể này thể hiện một phong cách kiến trúc của xứ Huế vừa đa dạng vừa giàu có, thích ứng một cách kì lạ với thiên nhiên thơ mộng ở đây.Cùng với các di sản văn hóa hữu thể, văn hóa vô thể xứ Huế là một kho tàng phong phú và quý giá.

Trước hết là nghệ thuật biểu diễn : những điệu hò, điệu hát li, hát trò, hát sắc bùa, những bài ca trên sông nước Hương Giang. Nét độc đáo của dân ca xứ Huế là âm sắc, ngữ âm địa phương không lẫn với vùng nào trên đất nước ta, đồng thời ảnh hưởng của dân ca, âm nhạc Chăm-pa đối với dân ca xứ Huế là điều không thể phủ nhận.

 Lễ hội dân gian xứ Huế
- Lễ hội tưởng nhớ vị khai canh, Thành hoàng làng (Lễ Thu tế làng Phú Ốc, Lễ Thu tế làng Thanh Lương, Lễ tế làng Hương Cần, Lễ tế đông chí làng Phù Bài, Lễ hội làng Thanh Phước, Hội vật làng Sình, Cầu ngư ở Thuận An, Thu tế làng Dương Nỗ, Lễ tế làng Hạ Lang, Thu tế làng Thanh Cẩn, Hội Dinh làng Cổ Bi, Lễ Thu tế làng Xuân Hòa, Lễ Thu tế làng Thế Chí Tây, Lễ Tế thần làng Phù Ổ).
- Lễ hội tưởng niệm vị tổ sư ngành nghề (điêu khắc, kim hoàng, Lễ cúng tế ở Phường Đúc, ca nhạc Huế, Tuồng, thợ Nề, nghề thêu, nghề rèn).
- Lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo (Lễ Hội Điện Hòn Chén, Nghi lễ Đám tang Cá Ông voi, Lễ tế âm hồn ngày thất thủ kinh đô, Lễ Phật đản, Vu lan).
- Lễ hội theo tục lệ (Lễ hội đua ghe truyền thống, Hội thả diều truyền thống, Lễ rước hến), cầu an theo mùa (cầu mưa ở Thần Phù).
- Lễ tế tưởng nhớ các danh nhân, anh hùng lịch sử (Lễ tế Ngài Võ Đại Nho).
- Lễ giỗ tổ nghề (kim hoàn).

TRANG PHUC:
Trong văn hóa đời thường, không thể không nhắc đến cách ăn, cách mặc của người Huế, AÓ DÀI TÍM-VỪA THỂ HIỆN PHONG CÁCH ĐOAN TRANG DUYÊN DÁNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HUẾ, MÀ CÒN THỂ HIỆN VẺ ĐẸP CỦA SỰ MỘNG MƠ, THUỶ CHUNG CỦA SẮC TÍM.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét