THUYẾT TRÌNH MIỀN TRUNG BỘ
Khí hậu Trung Bộ được chia ra làm hai khu vực
chính là Bắc Trung Bộ
và Duyên Hải Nam Trung Bộ.
Khu vực Bắc
Trung Bộ
(bao gồm toàn bộ phía Bắc đèo Hải Vân).
Vào mùa đông, do gió mùa thổi
theo hướng Đông Bắc
mang theo hơi nước từ biển vào nên toàn khu vực chịu ảnh hưởng của thời tiết lạnh
kèm theo mưa. Đây là điểm khác biệt với thời tiết khô hanh vào mùa Đông vùng Bắc Bộ. Đến mùa Hè không còn hơi nước
từ biển vào nhưng có thêm gió mùa Tây Nam (còn gọi là gió
Lào) thổi ngược lên gây nên thời tiết khô nóng, vào thời điểm này nhiệt độ ngày
có thể lên tới trên 40độC, trong khi đó độ ẩm không khí lại rất thấp.[3]
Vùng Duyên hải
Nam Trung Bộ (bao gồm khu vực đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ thuộc phía Nam đèo Hải
Vân). Gió mùa Đông
Bắc khi thổi đến đây thường suy yếu đi do bị chặn lại bởi dãy Bạch Mã.
Vì vậy khi về mùa hè khi xuất hiện gió mùa Tây
Namthổi mạnh từ vịnh Thái Lan
và tràn qua dãy núi Trường Sơn sẽ gây ra thời tiết khô nóng cho toàn bộ khu vực.[4]
Đặc điểm nổi bật của khí hậu Trung Bộ
là có mùa mưa và mùa khô không cùng xảy ra vào một thời kỳ trong năm của hai
vùng khí hậu Bắc Bộ và Nam Bộ.
THIÊN NHIÊN
KHẮC NGHIỆT: HẠN HÁN-LŨ LỤT.
Thừa Thiên - Huế là một
trong các tỉnh có lượng mưa nhiều nhất ở Việt Nam với lượng mưa trung bình năm
vượt trên 2.600mm, có nơi lên đến 4.000mm
Hàng năm có từ 200 -
220 ngày mưa ở các vùng núi, 150 - 170 ngày mưa ở khu vực đồng bằng duyên hải.
Vào mùa mưa, mỗi tháng có 16 - 24 ngày mưa. Những đợt mưa kéo dài nhiều ngày
trên diện rộng thường gây ra lũ lụt lớn.
Với lượng mưa chiếm 68
- 75% lượng mưa trong năm, sẽ phát sinh lũ lụt lớn và gây thiệt hại sản xuất,
tài sản, tính mạng cư dân, tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái. Ngược lại,
trong mùa ít mưa thì nước lại không đủ cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất của một
số địa phương trong vùng.
Mùa mưa lũ ở Bắc Trung
Bộ thường xảy ra từ tháng 7 đến tháng 10, ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ thường
xảy ra từ tháng 10 đến tháng 12. Những trận lũ lụt lớn đã xảy ra ở miền Trung .
HỆ
THỐNG SÔNG,NÚI, BIỂN
·
Sông Mã:
Bắt nguồn từ Điện Biên, cháy qua Sơn La, Sầm Nưa (Lào) rồi về địa phận Thanh
Hóa theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, cùng với phụ lưu sông
Chu tạo thành hệ thống sông Mã, bồi đắp đồng bằng Thanh Hóa là đồng
bằng lớn nhất Miền Trung Việt Nam và thứ 3 ở Việt Nam.
·
Sông Thu Bồn:
Bắt nguồn từ núi Ngọc Linh (giáp giới hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum), dài 95
km, chảy trên địa phận tỉnh Quảng Nam.
·
Sông Lam:
Bắt nguồn từ Nậm Căn
(Lào), dài 513 km, chảy qua Nghệ An theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, đổ ra biển
Đông tạicửa Hội.
·
Sông Hương
(còn gọi là Hương Giang): Bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, dài 30 km đoạn từ Bằng
Lãng đến cửa Thuận An,
chảy qua thành phố Huế ở tỉnh Thừa Thiên-Huế sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch
tại ngã ba Bằng Lãng.
·
Bãi biển Cửa
Lò: Thuộc thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Bãi biển Cửa Lò là một trong
những bãi tắm đẹp ở Việt Nam, nằm giữa quần thể du lịch - văn hóa của xứ Nghệ.
·
Bãi biển Sầm Sơn: Thuộc thị xã Sầm Sơn, tỉnh
Thanh Hóa. Bãi biển Sầm Sơn do người Pháp khai thác từ năm 1906 và đã nhanh
chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi tiếng của Ðông Dương.
·
Biển Nhật
Lệ : Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình -bãi
tắm tuyệt đẹp với nền cát trắng phau và dòng nước biển trong xanh giữa trời-mây-non-nước
hữu tình
·
Thiên Cầm:
Nằm ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Từ đầu thế kỷ 20, người Pháp đã cho xây dựng
Thiên Cầm thành một khu nghỉ mát.
CAC DAI NUI:
Dãy núi Trường Sơn là dãy núi dài nhất Việt Nam và Lào, dài khoảng 1.100 km.
Tên của dãy núi trong tiếng Lào
là Phu Luông.
Dải Trường Sơn kéo dài từ thượng nguồn
sông Cả trên đất Lào giáp Nghệ An tới tận cực nam Trung Bộ.
Nó bao gồm toàn bộ các dãy núi nhỏ hơn ở Bắc Trung Bộ
và các khối núi, cao nguyên Nam Trung Bộ,
xếp thành hình cánh cung lớn mà mặt lồi quay ra Biển Đông.
Trường Sơn được chia thành Trường Sơn
Bắc và Trường Sơn Nam, ngăn cách bởi đèo Hải Vân và núi Bạch Mã.
Là chứng nhân lịch sử gắn liền cuộc kháng chiến
chống Mỹ.
Thiên hạ
đệ nhất hùng quang đèo Hải Vân luôn luôn là một địa danh ấn tượng. Đây là đèo cao nhất
trong các đèo ở Việt Nam (khoảng 500m so với mực nước biển), đầy hiểm trở và cũng
là đỉnh núi cuối cùng của một mạch Trường Sơn đâm ngang ra biển. Trong Phủ Biên
tạp lục, Lê Quý Đôn từng nhận xét: Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc từng mây
là giới hạn của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.
II.LỊCH SỬ
và XÃ HỘI
1059,
o Đaị Việt, Quảng Bình thuộc về nhà lý.
1336,
Châu ô ,Châu
lý-Quảng Trị, Thưà Thiên Huế ngày nay thuộc nhà Trần
1470,
Vùng đất
núi Thạch Bi -Phú Yên trở ra thuộc nhà Lê.
-
1558,
Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận
Hoá.
Chiến tranh Trịnh
-Nguyễn, đất nước bị chia cắt thành Đàng trong, Đàng ngoài. Kinh đô
nhà Nguyễn là vùng Phú Xuân.
1778,
Nguyễn Huệ
lên ngôi , đất nước thống nhất trên cơ bản,
1802,dựa trên thế lực
phương Tây, Nguyễn Ánh đánh bại triều Tây Sơn.
Từ 1802-1945,
kinh đô ở
Huế.
Như vậy, miền Trung có một thời ít nhất ba vương triều.
Trải qua tiến trình lịch sử, Trung bộ là trạm trung chuyển,đất
đứng chân để Việt tiến về phiá Nam mở cõi, laị là vùng biên viễn
Đaị Việt nơi diễn ra sự gia lưu trực tiếp giữa người Việt và người
Chăm.
Chính những đặc điểm tự nhiên xã hôị , lịch sử này đã tạo cho
vùng văn hoá Trung Bộ những đặc điểm riêng so với các vùng văn hoá
khác của Việt Nam.
Văn hóa
Trung Bộ, ngoại trừ Thanh Hóa, Nghệ
An và Hà Tĩnh, từng là nơi định cư của các tiểu vương quốc Chăm-pa. Vì vậy đặc điểm
căn bản văn hoá vùng miền chủ yếu mang dấu tích của văn hoá Chăm-pa.
Nhiều di sản văn hoá hữu thể còn tồn tại từ thời đó đến
nay như tháp Chăm
ở Huế, tháp Đôi Liễu, Cốc
Thượng, Núi Rùa ở Quảng Nam,
Đà Nẵng được xem như những đại diện tiêu biểu cho các giai đoạn phát triển nghệ thuật và kiến trúc đối với lịch sử
của nền văn hoá Trung Bộ.
So sánh với 2 vùng Bắc Bộ và Nam Bộ thì Trung Bộ thể hiện
rõ nét là một vùng đệm mang tính trung gian. Nơi đây phần nào đã chịu sự ảnh hưởng
từ các yếu tố tự nhiên là núi non, biển, sông ngòi, các đầm và đồng bằng, vào
trong các thành tố văn hoá vùng.
Dọc miền Trung,
nhiều di sản văn hóa hữu thể còn tồn tại trên mặt đất. Đó là các tháp Chăm phơi
sương gió cùng năm tháng.
Lịch sử đi qua bao nỗi thăng trầm, cuộc đời phải trải
qua bao cơn dâu bể, tháp Chăm vẫn sừng sững như một dấu ấn không thể phai mờ. ở
Huế, theo tác giả Trần Đại Vinh, còn tháp đôi Liễu, Cốc Thượng, tháp Núi Rùa.
ở Bình Dương có
tháp Phước Lộc, tháp Cánh Tiên, tháp Bánh ít, tháp Bình Lâm, tháp Thủ Thiện, ba
ngôi tháp Dương Long; hai ngôi tháp ở Hưng Thạnh.
ở tỉnh Phú yên
có tháp Nhạn;
ở Khánh Hòa có
tháp Pô Nagar; ở Ninh thuận có cụm tháp Hòa Lai, cụm tháp Núi Trầm;
ở Bình Thuận có tháp pô Đam (hay Pô Tấm), tháp Phú Hải.
Có thể nói khó có vùng văn hóa nào ở nước ta lại có
nhiều tháp Chăm như vùng văn hóa Trung Bộ.Ngoài các tháp, di vật văn hóa
Chăm-pa còn trên mặt đất, trong lòng đất khá nhiều. Đó là các tượng bà Pô
Nagar, tượng Chó, đặc biệt là các tượng linga, yoni.
Linga (tiếng Phạn: लिङ्गं liṅgaṃ,
có nghĩa là "dấu hiệu") là một biểu tượng thờ phụng của vị thần Ấn Độ giáo Shiva. Tuy nguồn gốc của
nó chưa được xác định, biểu tượng thờ phụng này ở Ấn Độ đã được sử dụng ít
nhất là từ thời kỳ đầu của nền văn minh thung lũng sông Ấn. Đây là một trong
hai vật thờ linh thiêng (cùng với yoni)
của người Chăm.
·
Linga tượng trưng cho dương tính, có hình khối trụ đặt trên
yoni (hình khối vuông, đại diện cho âm khí) trong chính điện của các tháp Chăm.
·
Linga và yoni
biểu thị cho tính âm-dương kết hợp, tạo ra sự hủy diệt và tái sinh của vũ trụ.
Tín ngưỡng dân gian
Đó là các phù
điêu, các trụ đá, các bia đá v.v...Cùng các di sản văn hóa hữu thể, vùng Trung
Bộ còn khá nhiều các di sản văn hóa vô thể của văn hóa Chăm pa. Đó là các địa
danh Việt mà chúng ta có quyền ngờ rằng, gốc tích của nó phải là các địa danh
Chăm, kiểu như Cồn Ràng, Cồn Lồi, Cồn Mọi. Đó là các tín ngưỡng dân gian của
người Chăm như thờ bà mẹ xứ sở, thờ cá voi, thờ thần biển .v.v...
Truyền thuyết
Theo người Chăm
Nữ thần Poh Nagar do bọt nước biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi.
Một hôm, nước biển dâng cao đưa bà vào bến sông Yjatran[1]
ở Kauthara (Cù Huân). Sấm trời và gió hương liền nổi dậy báo cho muôn loài biết
tin bà giáng thế. Tức thì, nước trên nguồn dồn lại thành sông chảy xuống đón mừng
bà, và núi cũng hạ mình thấp xuống để đón rước bà.
Khi bà bước lên bờ, thì cây cong xuống
để tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến chầu hai bên đường, và hoa cỏ cũng
xinh tươi rực rỡ hơn để điểm hương cho mỗi bước chân bà đi. Rồi nữ thần Poh
Nagar dùng phép hóa ra cung điện nguy nga, hóa ra trầm hương cùng lúa bắp…
Nhiều phép thuật, bà cũng rất nhiều
chồng. Nơi hậu cung của bà, có đến 97 ông. Nhưng trong số đó, chỉ ông Pô Yan
Amo là có uy quyền hơn cả. Sống với ngần ấy ông chồng, nhưng bà chỉ sinh được
38 người con gái. Những người con ấy, sau đều thành thần, trong số có ba người
được bà truyền nhiều quyền phép, đó là Pô Nogar Dara, Rarai Anaih (cả hai được
người dân vùng Phan Rang
tôn thờ) và Pô Bia Tikuk. (được người dân Phan Thiết tôn thờ).
Đến khi đất Kauthara thuộc về người
Việt, thì nữ thần Poh Nagar cũng trở thành vị nữ thần của người Việt với tên gọi
là Thiên Y A Na và sự tích của bà cũng được Việt hóa.
Tuy những lời kể có đôi nét khác
nhau, nhưng đại để như sau:
Xưa kia tại núi Đại An (nay là Đại Điền),
có hai vợ chồng tiều phu già không con, trồng rẫy dưa. Dưa chín, thường bị hái
trộm. Rình rập, một đêm ông lão bắt được thủ phạm. Khi biết được kẻ hái là một
cô gái nhỏ xinh đẹp nhưng mồ côi, ông liền mang về nuôi. Không ngờ, cô gái ấy vốn
là tiên nữ, vì lí do nào đó, phải giáng trần!
Một hôm, mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu
điều, khiến tiên nữ thêm nhớ cảnh tiên xưa. Cho nên, cô lấy đá và hoa lá tạo
thành một hòn giả sơn (hònnon bộ).
Cho rằng việc làm đó không thích hợp đối với một phụ nữ, nên người cha nuôi có
nặng lời quở mắng. Vì vậy, nhân thấy một khúc kì nam
đang trôi dạt, cô bèn biến thân vào khúc cây ấy, để xuôi ra biển cả rồi tấp vào
bờ biển nước Trung Hoa.
Mùi hương từ khúc kì nam lan tỏa khắp
nơi, khiến nhiều người đến xem, nhưng không một ai nhấc lên nổi. Thái tử nước ấy,
nghe tin đồn tìm đến, rồi nhẹ nhàng vác khúc gỗ kia mang về cung. Đêm nọ, Thái
tử thấy có bóng người lạ ẩn hiện từ khúc cây kì nam. Rình rập mấy đêm, thì
chàng bắt được. Nghe cô gái xinh đẹp tự xưng mình là Thiên Y A Na và khi nghe
chuyện của nàng xong, ngay hôm sau, Thái tử đã tâu với vua cha cho phép cưới
nàng làm vợ. Sống với Thái tử, Thiên Y A Na sinh được một trai đặt tên là Tri
và một gái đặt tên là Quí.
Một hôm, Thiên Y A Na nhớ cảnh cũ người
xưa, bèn dắt hai con nhập vào khúc kì nam, vượt biển trở về cố quốc. Khi biết
cha mẹ nuôi đã mất, bà cho xây đắp mồ mả, cho sửa sang lại nhà cửa để có chỗ thờ
phụng hai ông bà. Thấy dân chúng ở Đại An hãy còn thật thà, chất phác; bà liền
đem những gì học được ở quê chồng, như phép tắc, lễ nghi ra chỉ dạy và dạy cả
những việc như cày cấy, kéo sợi dệt vải... để người dân quê mình biết cách mưu
sinh.
Ít lâu sau, một con chim hạc từ trên
mây cao bay xuống, rước bà và hai con về cõi tiên. Nhớ ơn đức, nhân dân địa
phương cùng nhau xây tháp, tạc tượng phụng thờ.
Khi đến Đại An, không tin Thiên Y A
Na và hai con đã rời bỏ cõi tục, bộ hạ của Thái tử đã tra khảo người dân rất dữ,
vì ngỡ họ cố tình che giấu mẹ con bà. Bị oan ức và đau đớn, nhiều người dân đã
thắp hương cúng vái bà. Liền đó, một trận cuồng phong nổi dậy, cát chạy đá
bay...và toàn bộ những người đến từ phương Bắc đều bị cát vùi thây, thuyền bè của
họ cũng bị đá đánh chìm hết…
Theo lời người xưa truyền lại, thì những
cụm đá ở trước cửa tháp Bà (tức tháp Po Nagar ở Nha Trang), giữa cửa sông
Cù, là những viên đá đã đánh đắm cả đoàn thuyền vừa kể.[2]
Sự tích này đã được Kinh lược Phan Thanh Giản chép lại
thành bài kí, khắc lên bia đá, dựng sau tháp Bà ở Nha Trang vào năm Tự Đức thứ 9 (1856).
Ngoài ra, vào năm 1925, bác sĩ Sallet
chép lời người dân địa phương kể lại, thêm thắt vài chi tiết, đề có một sự tích
nữa, tóm gọn như sau:
Một Thái tử Trung Hoa qua Việt Nam
tìm vợ, gặp khúc trầm to, muốn đưa lên thuyền, nên cho lính chặt ra làm ba
khúc. Tức thì, giông bão nổi lên làm đắm thuyền. Khúc trầm trôi ngược vào sông,
tấp vào khu vườn ở làng Bình Thủy (Phan Rí). Do được báo mộng,
chủ vườn thức dậy, thì thấy khúc trầm to có ghi chữ Thiên Y (Thiên Y A Na) và
hai khúc trầm nhỏ (hai đứa con), và ông đã đem lên cất miếu thờ. Lâu ngày, gỗ
trầm hóa đá.
Lại truyền tụng thêm một câu chuyện
khác, theo nhà văn Sơn Nam,
đó là ngày xưa "có một phú thương người Hoa thử mua hoặc đánh tráo khúc trầm,
đưa lên ghe chở về Tàu,
thì giông tố liền nổi lên, khiến thuyền phải quày về chỗ cũ".[3]
Tuy nhiên, hai sự tích ghi sau, ít được
phổ biến.
PHONG TUC:
Tục thờ Cá Ông xuất nguồn
từ tục thờ Cá Ông của người Chăm. Tuy nhiên,
trải qua sự bản địa hóa, tục thờ cá Ông trở thành tín ngưỡng của người Việt và cả người Hoa.
·
Đối với người Việt và người Hoa, Cá Ông chính
là mảnh pháp y (áo choàng sau) của Quan Thế Âm (hay Nam Hải
Bồ tát) quăng xuống biển để cứu giúp cư dân vùng biển trong cơn giông tố giữa
biển.
Mục đích của tục thờ cá
Ông hình thành để cầu yên cho các ngư thuyền ra khơi đánh cá và mong được mẻ cá
lớn. Tục này thời Gia Long đã thành lệ.
Từ bao đời nay,
người dân làm nghề biển giã rất sùng kính cá Voi, coi đó là một vị thần tối cao
luôn cứu giúp họ khi gặp hoạn nạn trên biển cả. Trong các đình làng biển ở
Khánh Hòa, ngoài bàn thờ Tiền hiền, Hậu hiền còn có bàn thờ Ông Nam Hải (tức cá
Voi). Vào tháng 3 hoặc tháng 7 âm lịch hàng năm, ngư dân thường tổ chức lễ hội
cầu ngư với mục đích cầu Ông Nam Hải ban cho một mùa cá bội thu và phù hộ dân
làng được bình an, mạnh khỏe.
VĂN
HOÁ NÔNG NGHIỆP KẾT HỢP NGƯ NGHIỆP
Ẩm thực miền Trung bình dị và dân dã
Mảnh đất Miền Trung vốn cằn cỗi
là thế và cũng không được thiên nhiên ưu ái như các vùng đất khác, chính vì vậy,
con người nơi đây luôn biết trân trọng và biến những sản vật tuyệt vời đó thành
những món ăn mang những hương vị rất riêng, mà ai đã một lần thưởng thức nó sẽ
không thể nào quên.
Ẩm thực Miền
Trung có một chiều sâu riêng, mang đậm nét bản sắc của một vùng đất thanh lịch,
nhẹ nhàng; rất phong phú, mỗi địa phương đều có những đặc sản riêng, mang đậm bản
sắc phong phú và hương vị của từng nơi thế nên đặc sản miền Trung cũng nhiều vô
kể.
Đồ ăn miền Trung với tất cả
tính chất đặc sắc của nó thể hiện qua hương vị riêng biệt, nhiều món ăn cay và
mặn hơn đồ ăn miền Bắc và miền Nam, màu sắc được phối trộn phong phú, rực rỡ, thiên về màu đỏ và nâu sậm.
Các tỉnh thành miền Trung như Huế,
Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Định, Bình Thuận rất nổi tiếng với
mắm tôm chua và các loại mắm ruốc. Đặc biệt, ẩm thực
Huế do ảnh hưởng từ phong
cách ẩm thực
hoàng gia,
cho nên rất cầu kỳ trong chế biến và trình bày. Một mặt khác, do địa phương
không có nhiều sản vật mà ẩm thựchoàng gia
lại đòi hỏi số lượng lớn món, nên mỗi loại nguyên liệu đều được chế biến rất đa
dạng với trong nhiều món khác nhau.
2. Tiểu vùng văn hóa xứ Huế :
Thiên nhiên đã tạo cho xứ Huế có một diện
mạo riêng. Đó là một vùng Huế núi đồi mà nhà Nguyễn cùng sức muôn dân đã tạo ra
một khu lăng tẩm đế vương. Đó là một vùng Huế cồn bãi đôi bờ Hương Giang cùng
các nhánh sông Bạch Yến, An Cựu, Kim Long (nay đã bị lấp nhiều).
Nói khác đi xứ Huế là vùng thiên nhiên đa dạng
: có rừng, có biển, có núi, lại có cả đồng bằng.
Mặt khác, lịch sử lại đem đến cho vùng đất
có một số phận đặc biệt. Từ chỗ là phên giậu của Đại Việt, nơi địa đầu giao lưu
với Chăm-pa đến chỗ thành dinh của chúa Nguyễn, rồi kinh đô của vương triều Tây
Sơn, kinh sư, thượng kinh của nhà Nguyễn. Chính những điều kiện tự nhiên và biến
đổi lịch sử ấy in dấu vào đời sống văn hóa vật chất lẫn tinh thần của xứ Huế, tạo
cho nó một gương mặt riêng ...
Nói tới xứ Huế là nói tới một hệ kinh
thành còn giữ được tương đối hoàn chỉnh với hoàng thành, tử cấm thành, điện
Thái Hòa, Long An, Ngọ Môn .v.v.., đồng thời cũng nói tới hệ lăng tẩm với những
lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.v.v..,
và cũng nói tới một hệ chùa đền như tháp
Thiên Mụ, điện Hòn Chén, chùa Từ Đàm, Túy Vân, Diệu Đế.
Tất cả những di sản văn hóa vật thể này
thể hiện một phong cách kiến trúc của xứ Huế vừa đa dạng vừa giàu có, thích ứng
một cách kì lạ với thiên nhiên thơ mộng ở đây.Cùng với các di sản văn hóa hữu
thể, văn hóa vô thể xứ Huế là một kho tàng phong phú và quý giá.
Trước hết là nghệ thuật biểu diễn : những
điệu hò, điệu hát li, hát trò, hát sắc bùa, những bài ca trên sông nước Hương
Giang. Nét độc đáo của dân ca xứ Huế là âm sắc, ngữ âm địa phương không lẫn với
vùng nào trên đất nước ta, đồng thời ảnh hưởng của dân ca, âm nhạc Chăm-pa đối
với dân ca xứ Huế là điều không thể phủ nhận.
Lễ hội dân gian xứ Huế
- Lễ hội tưởng nhớ vị khai canh, Thành hoàng làng (Lễ Thu tế làng Phú
Ốc, Lễ Thu tế làng Thanh Lương, Lễ tế làng Hương Cần, Lễ tế đông chí làng Phù
Bài, Lễ hội làng Thanh Phước, Hội vật làng Sình, Cầu ngư ở Thuận An, Thu tế
làng Dương Nỗ, Lễ tế làng Hạ Lang, Thu tế làng Thanh Cẩn, Hội Dinh làng Cổ Bi,
Lễ Thu tế làng Xuân Hòa, Lễ Thu tế làng Thế Chí Tây, Lễ Tế thần làng Phù Ổ).
- Lễ hội tưởng niệm vị tổ sư ngành nghề (điêu khắc, kim hoàng, Lễ
cúng tế ở Phường Đúc, ca nhạc Huế, Tuồng, thợ Nề, nghề thêu, nghề rèn).
- Lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo (Lễ Hội Điện Hòn Chén, Nghi lễ Đám tang
Cá Ông voi, Lễ tế âm hồn ngày thất thủ kinh đô, Lễ Phật đản, Vu lan).
- Lễ hội theo tục lệ (Lễ hội đua ghe truyền thống, Hội thả diều truyền
thống, Lễ rước hến), cầu an theo mùa (cầu mưa ở Thần Phù).
- Lễ tế tưởng nhớ các danh nhân, anh hùng lịch sử (Lễ tế Ngài Võ Đại
Nho).
- Lễ giỗ tổ nghề (kim hoàn).
TRANG PHUC:
Trong văn hóa đời thường, không thể không nhắc đến
cách ăn, cách mặc của người Huế, AÓ DÀI TÍM-VỪA THỂ HIỆN PHONG CÁCH ĐOAN TRANG
DUYÊN DÁNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HUẾ, MÀ CÒN THỂ HIỆN VẺ ĐẸP CỦA SỰ
MỘNG MƠ, THUỶ CHUNG CỦA SẮC TÍM.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét