Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2016

TÌM HIỂU BẢN SẮC CỦA VĂN HÓA CHĂM-MÔN: LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM-BÀI TIỂU LUẬN

MÔN: LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
BÀI TIỂU LUẬN
Đê Tài: TÌM HIỂU BẢN SẮC CỦA VĂN HÓA CHĂM


LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Người Chăm cũng như các dân tộc ở Đông Nam Á, đều có nền văn hóa bản địa chung
của cư dân nông nghiệp lúa nước. Trải qua những giai đoạn lịch sử đầy biến động thăng
trầm, văn hóa của người Chăm  biến đổi đồng hành cùng diễn trình vận động trong
không gian, qua thời gian của sự tiếp biến, loại trừ đa nguồn văn hóa, sự giao thoa, hòa
nhập, giữa những yếu tố văn hóa nội sinh và ngoại sinh, tạo nên một sắc thái văn hóa Việt
Nam ngày nay. Tuy đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu về văn hóa Chăm, nhưng cho đến nay, văn hóa Chăm đầy bí ẩn, luôn có sức hấp dẫn các nhà nghiên cứu khoa học xã hội.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Do những giới hạn về khả năng chuyên môn và thời gian nghiên cứu nên đề tài
không thể bao quát toàn bộ một nền văn hóa có niên đại hàng nghìn năm lịch sử. Thay vào đó, đề tài tập trung chuyên sâu nghiên cứu bản sắc văn hóa Chăm.
3. Lịch sử nghiên cứu:
Với một bề dày về lịch sử - văn hóa,dân tộc Chăm là một trong những di sản văn hóa
đồ sộ, phong phú trong kho tàng văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam, là một mảng màu làm
nên sự đa dạng, sinh động trên bức tranh toàn cảnh của bản sắc văn hóa Việt Nam. Với
nhiều lớp văn hóa tích tụ, bồi đắp trong quá trình lịch sử dài lâu, văn hóa Chăm cho đến
nay vẫn luôn là đối tượng hấp dẫn của các nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước. Có thể nói, trong tư liệu nghiên cứu về văn hóa các dân tộc, tư liệu nghiên cứu về văn hóa
Chăm là một trong những kho tàng đồ sộ nhất, giàu có nhất, trải dài suốt từ đầu công
nguyên đến nay. Theo thống kê của Nguyễn Hữu Thông và các tác giả của Phân viện
Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật miền Trung (có thể là chưa hoàn toàn đầy đủ) thì đã có tới 2.278 công trình, bài viết khoa học về văn hóa Chăm của các tác giả trong và ngoài nước đã được xuất bản.
*Tình hình nghiên cứu ngoài nước:
Vấn đề văn hóa, dân tộc luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu trên thế giới quan
tâm, đặc biệt là các vùng quốc gia đa sắc tộc. Việc nghiên cứu văn hóa của một cộng đồng dân tộc không chỉ dừng lại ở mức độ nắm bắt những giá trị, đặc trưng của văn hóa cộng đồng dân tộc đó mà còn là cơ sở khoa học để các nhà hoạch định chính sách về văn hóa, xã hội đề ra những giải pháp, những chiến lược tích cực nhằm đảm bảo vấn đề an sinh xã hội,phát triển quốc gia, vùng dân tộc thiểu số. Do vậy, trong bất kỳ thời đại nào, vấn đề vănhóa dân tộc cũng là vấn đề thu hút được sự đầu tư nghiên cứu.
Về văn hóa Chăm, Thư tịch cổ Trung Hoa đã có những ghi chép ban đầu về dân cư
và Vương quốc Champa - Vương quốc cổ của tổ tiên người Chăm ngày nay. Những tư liệu về Champa của Trung Quốc ghi lại chủ yếu trong Hán thư, Lương sử, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử v.v . Các nhà nghiên cứu đều dựa vào những sử liệu này để dựng lạilịch sử Lâm Ấp - Hoàn Vương - Chiêm Thành. Nhưng những sử liệu nói trên chủ yếu nóivề việc triều cống, giao tranh, hòa hiếu giữa Champa và một số quốc gia trong khu vực thờibấy giờ. “Những tư liệu của Trung Quốc viết về phong tục tập quán của người Chăm xưakhông có hệ thống, rất hiếm hoi, rời rạc và sơ sài, nhiều khi thiếu chính xác.” (Phan Quốc Anh)
Phải đến nửa cuối thế kỷ XIX, trong sự phát triển chung của các ngành khoa học, người
Chăm và nền văn hoá của họ mới được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu với tư
cách là đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau. Cụ thể là năm 1852, J.
Graufurd công bố danh sách 81 từ vựng tiếng Chăm, mở đầu cho các cuộc khảo sát về
người Chăm được tiến hành tại Việt Nam. Sau đó, hàng loạt các công trình nghiên cứu về
văn hóa Chăm được ra đời. Bước đầu nghiên cứu về Champa, các nhà khoa học phương
Tây quan tâm nhiều đến vấn đề ngôn ngữ và văn tự Chăm. Phải đến những năm đầu của
thế kỷ XX, việc nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc, các di tích mới được quan tâm. Đáng
chú ý là tác giả L. Finot với công trình thống kê các danh mục kiến trúc Chăm (1901); L.
Cadiere và H. Parmentier cũng có nhiều bài viết quan trọng đề cập di tích và các vấn đề
khảo cổ Chăm khu vực Miền Trung. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về văn hóa Chăm khá đồ sộ. Đa số các công trình này tập trung nghiên cứu về người Chăm khu vực Miền Trung. Các tác giả phương Tây thường tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ, văn tự, văn bia, nghệ thuật kiến trúc, khảo cổ Champa
*Tình hình nghiên cứu trong nước:
Nhận thức rõ vai trò công tác nghiên cứu văn hóa các cộng đồng dân tộc thiểu số nói
chung và văn hóa cộng đồng dân tộc Chăm nói riêng, ở nước ta từ trước đến nay đã có
nhiều công trình xoay quanh đối tượng này. Từ những năm 1945 - 1975, đã có nhiều công trình nghiên cứu khá chuyên sâu về văn hóa Chăm. Điển hình như: Nhóm tác giả Nguyễn
Trắc Dĩ, Thái Văn Kiểm, Tạ Chí Đại Trường với công trình Dân tộc Chàm lược sử (1965). Từ sau năm 1975, tình hình nghiên cứu về văn hóa Chăm ở nước ta có nhiều khởi sắc. Đặc biệt là đóng góp của các tác giả Lê Ngọc Canh (Múa Chăm, 1982), Phan An, Phan Văn Dốp (Văn hóa Chăm, 1991). Các nhà nghiên cứu người Chăm cũng cho ra mắt nhiều công trình rất có giá trị. Điển hình như: Ngô Văn Doanh (Văn hóa Champa, 1994; Văn hóa cổ Champa, 2002). Ngoài ra, có thể kể đến tác giả Phan Văn Dốp với công trình nghiên cứu Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long (1991). Trong đó, ông đã dành một chương nói về Người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong tình hình phát triển mới của đất nước, việc nghiên cứu nghi lễ vòng đời của cộng đồng dân tộc mang tính cấp thiết, đòi hỏi được sự quan tâm sâu sắc. Đây là cơ sở quan trọng để củng cố và phát triển đời sống văn hóa xã hội cho cộng đồng người Chăm bên cạnh cộng đồng người Việt trong tương lai.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài này, nhóm đã vận dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hóa
học: nghiên cứu văn hóa dân gian, lịch sử địa lý, tôn giáo v.v… Từ những tư liệu thu thập
được, dùng phương pháp so sánh, quy nạp, đối chiếu, phân tích để bước đầu bóc tách
các lớp văn hóa, giải mã một số hiện tượng, đưa ra những phát hiện mới và những nhận
định mới của mình về văn hóa truyền thống Chăm thông qua các luận điểm khoa học.


CHƯƠNG I: KHÁT QUÁT CHUNG VỀ LỊCH SỬ VĂN HÓA CHĂM PA
1. Sơ lược lịch sử vương quốc Chăm pa
1.1. Lịch sử hình thành
Trên dải đất Việt Nam ngày nay vào thời xưa đã từng tồn tại ba quốc gia.Về đại thể thì miền bắc là lãnh thổ Đại Việt, miền trung là địa bàn của vương quốc Chămpa và miền nam là một phần lãnh thổ của vương quốc Phù Nam. Các kết quả nghiên cứu về khảo cổ học, dân tộc học, sử học… ngày càng chứng minh rõ ràng hơn về cội nguồn của ba quốc gia cổ đại ấy. Có thể nói một cách khái quát là văn minh Đại Việt bắt nguồn từ văn hóa Đông Sơn, văn minh Chămpa phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh, văn minh Phù Nam mà một phần quan trọng là văn hóa Óc Eo có nguồn gốc từ văn hóa Đồng Nai. Vào thời ấy cương vực, bờ cõi, biên giới giữa các quốc gia cổ đại luôn là vấn đề không bao giờ rành mạch rõ ràng. Tuy vậy nếu theo phân bố hành chánh ngày nay thì có thể coi các tỉnh ven biển miền Trung – từ Quảng Bình đến Bình Thuận – và các tỉnh khu vực Tây Nguyên là thuộc địa bàn của vương quốc Chămpa cổ xưa.
Trong quá trình phát triển vương quốc Chămpa được ghi chép trong các biên niên sử với các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, từ thế kỷ IX là Chămpa (hay Chiêm Thành). Vương quốc Chămpa có nhiều thành phần tộc người, xuất hiện từ đầu công nguyên. Tại khu di tích Mỹ Sơn (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) có một tấm bia của vua Paksadarma Vikrantavarma I (nửa đầu thế kỷ VII) ghi lại truyền thuyết về sự hình thành vương quốc Chămpa. Theo đó thì đã có một người Ấn Độ tên là Kaudinay (có nghĩa là người Bàlamôn vĩ đại nhất) đến và lấy nữ chúa Soma, con gái vua rắn Naga và sáng lập ra một vương triều. Đây là một huyền thoại phổ biến ở khu vực Đông Nam Á – như sự hình thành vương quốc Phù Nam cũng là một người Kaudinay lấy nữ chúa Liễu Diệp – huyền thoại thể hiện truyền thống văn hóa bản địa mang đậm tính chất Mẫu hệ có từ trước khi nền văn minh phụ hệ/ phụ quyền từ Ấn Độ ảnh hưởng đến khu vực này. Lịch sử vương quốc Chămpa qua sử liệu các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Đại Việt, Khmer, Java… phản ánh những nét khái quát như sau. Thư tịch cổ của Trung Quốc đã ghi chép những cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Tượng Lâm (huyện cực nam vùng đất mà nhà Hán chiếm đóng những năm đầu công nguyên). Đến năm 192 nhân lúc nhà Hậu Hán loạn, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy giết huyện lệnh, giành tự chủ. Người đứng đầu cuộc khởi nghĩa là Khu Liên (có thể tên này là ghi âm lại từ kurung của ngôn ngữ cổ Đông Nam Á, có nghĩa là tộc trưởng – vua ). Theo sách Thủy kinh chú quốc gia mới thành lập này có tên Lâm Ấp, “phía nam giáp nước Phù Nam… lợi dụng núi non hiểm trở, họ không chịu quy phục Trung Quốc” như Tấn thư chép khoảng năm 280. Lương sử (khoảng đầu thế kỷ VII) còn ghi lại phổ hệ những ông vua Chămpa sau Khu Liên như Phạm Hùng, Phạm Dật, Phạm Văn, Phạm Tư Đạt… đều là những tên gọi phiên âm ra tiếng Hán từ chữ Ấn Độ cổ. Những kết quả nghiên cứu mới nhất của nhiều học giả trong và ngoài nước thì vương quốc Chămpa được hình thành bởi một hệ thống gọi là mandala hay là một vương quốc bao gồm một liên minh/ liên lập của nhiều tiểu quốc có địa bàn kề cận nhau và tương đồng về văn hóa tộc người. Thuật ngữ mandala được các nhà nghiên cứu dùng để diễn tả một hệ thống chính trị – kinh tế được phát hiện ở hầu hết các vương quốc cổ ở Đông Nam Á. Trong mỗi tiểu quốc của mandala có một vị tiểu vương thường được thần linh hóa và tự xưng là thủ lĩnh của các tiểu vương khác – mà trên lý thuyết là những chư hầu của họ. Như đã nói ở trên, địa bàn vương quốc Chămpa ở miền Trung, khu vực địa hình hẹp chiều ngang tây – đông mà kéo dài theo chiều bắc – nam, lại bị chia cắt bởi các đèo cắt ngang do núi ăn lan ra biển. Song song với những con đèo này là những dòng sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy xuôi ra biển theo hướng tây – đông. Những dòng sông này và chi lưu của nó là những đường giao thông chủ yếu trong từng khu vực. Vùng hạ lưu hình thành dải đồng bằng tuy nhỏ hẹp nhưng là cơ sở của nền kinh tế nông nghiệp, cửa sông rộng nối với biển Đông hình thành các bến cảng – đầu mối liên hệ với các tiểu vùng khác bằng đường biển. Địa hình này tạo thành những tiểu vùng – tiểu quốc tập hợp thành vương quốc Chămpa. Những chuyến điền dã của giáo sư Trần Quốc Vượng và cộng sự tại miền Trung trong suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã phát hiện mô hình một tiểu quốc Chămpa dựa trên trục quy chiếu là các dòng sông lớn ở mỗi tiểu vùng địa hình. Theo mô hình này thì mỗi tiểu quốc phải có ba thiết chế – ba trung tâm, tính theo dòng chảy của sông từ núi (tây) ra biển (đông) là: trung tâm tôn giáo , hay là thánh địa, thường ở phía thượng nguồn các dòng sông – trung tâm chính trị , hay là thành cổ, thường ở vùng đồng bằng hạ lưu và ở phía nam dòng sông – trung tâm kinh tế thương nghiệp , thường là các cảng nơi cửa sông, cửa biển. Điển hình như tiểu quốc Amavarati vùng Quảng Nam, với dòng sông Thu Bồn ta thấy có thánh địa Mỹ Sơn, thành cổ Trà Kiệu và cảng thị Đại Chiêm – Đại Chiêm hải khẩu (Hội An). Do địa hình chung của cả vương quốc như vậy nên mỗi tiểu vùng – tiểu quốc phát triển tương đối độc lập và luôn tranh giành ảnh hưởng và địa vị đứng đầu cả vương quốc. Tiểu quốc và vị Tiểu vương nào hùng mạnh hơn sẽ có ảnh hưởng bao trùm và trở thành trung tâm và Quốc vương đứng đầu cả vương quốc. Tiểu vùng Amavarati lớn mạnh hơn cả có lẽ nhờ thương cảng Đại Chiêm hải khẩu Chămpapura, đã tập hợp được các tiểu quốc thành vương quốc, đặt kinh đô đầu tiên ở thành phố Sư tử Trà Kiệu Simhapura và Mỹ Sơn Srisambhubhadresvara là thánh địa. Đây là một trong những trung tâm quy mô và quan trọng nhất của vương quốc Chămpa. Các trung tâm lớn – tiểu vùng quan trọng – khác là Bình Định (Vijaya), Phú Yên – Khánh Hòa (Kauthara) và Ninh Thuận - Bình Thuận (Panduranga) .
1.2. Kinh tế
Vương quốc cổ Champa nằm trên khu vực miền Trung và Nam Trung Bộ là vùng có nhiều sản vật, khí hậu thuận lợi cho cây cối và các loài động vật sinh sôi nảy nở. Người dân ở đây lấy sản xuất nông nghiệp là nghề chủ yếu. Lúa tuy không nhiều, nhưng bù vào đó là rất nhiều loại rau quả và hoa màu. Vương quốc Champa là vùng có nhiều lâm sản và khoáng sản nổi tiếng như gỗ trầm hương (kỳ nam hương), vàng, bạc, đá quý. Sản xuất thủ công nghiệp khá phát triển, trong đó nổi bật nhất là các nghề dệt, nghề chế tạo đồ đựng, nghề làm đồ trang sức và vũ khí bằng kim loại. nghề đóng gạch và xây dựng. Ngoài ra, nghề đóng thuyền và đi biển cũng phát triển mạnh. Đặc biệt, kỹ thuật xây dựng tháp của người Chăm đạt tới trình độ rất cao .
Người Chăm cổ có nền kinh tế đa thành phần, đó là nông nghiệp đa canh: trồng lúa, dâu tằm, bông, hoa màu…Lâm nghiệp: khai thác gỗ và hương liệu quý… Ngư nghiệp: đánh bắt thủy hải sản và thủ công nghiệp: làm gốm, thủy tinh, rèn sắt, chế tác đồ trang sức và mỹ nghệ vàng bạc… Đặc biệt người Chăm cổ giỏi nghề buôn bán bằng đường biển và đường sông. Để thích ứng với vùng đất gần như quanh năm khí hậu khô hạn, người Chăm cổ đã có những hệ thống thủy lợi từ việc lợi dụng những mạch nước chảy từ núi, đồi gò mà xây dựng giếng, hồ đập… Sự phong phú và đa dạng của những di tích di vật Chămpa còn lại đến nay cho thấy một xã hội rất phát triển trên cơ sở một nền kinh tế có cơ cấu thích hợp mà nổi bật là tính hướng biển. Vương quốc Chămpa nổi tiếng trong lịch sử cổ trung đại với hệ thống cảng thị phục vụ cho việc đánh cá ngoài khơi xa, buôn bán, trao đổi giao lưu với những quần đảo ở biển Đông và xa hơn, đến Trung Quốc và Ấn Độ do nằm trên trục giao thông đường biển quan trọng nối liền hai trung tâm văn minh lớn của thế giới. Truyền thống văn hóa bản địa của cư dân cổ Đông Nam Á ngoài văn hóa nông nghiệp (lúa cạn và lúa nước) còn có văn hóa thương nghiệp đường biển của những tộc người cư trú ven biển và trong các quần đảo trong biển Đông, trong đó có người Chăm .
Địa thế của Champa khá đặc biệt, một dải đất hẹp chạy dài giữa đại dương và núi. Dân cư chủ yếu sống rải rác ven biển và trong nội địa th́ cư dân cư trú bên những ḍng sông. Chẳng hạn như vùng sông Thu Bồn , là một địa điểm quần cư của nhiều thời kỳ nối tiếp nhau cho đến thế kỷ XII, XIII với những trung tâm Trà Kiệu, Đồng Dương. Sông Trà gắn với những di tích quần cư Chánh lé và thành Châu Sa; Sông Côn gắn với Trà Bàn…G.Maspero dùa vào tên gọi trong bi kư đoán Champa chia làm 4 khu vực là: Amaravati (ứng với Quảng Nam), Vijaya (Quy Nhơn), Kauthara (Khánh hoà), Panduranga (Phan rang). Hoàn toàn không có ǵ chắc chắn đây là các khu vực hành chính, cũng như không chắc chắn là chỉ có 4 khu vực như trên. Tống sử ghi chép lại rằng Champa được chia làm 38 châu. Bi kư c̣n kể tên các đơn vị hành chính khác, như Pramana mà G.Maspero đoán là tỉnh và Vijaya đoán là huyện.
Điều đáng nói ở đây là địa h́nh Champa bị chia cắt bởi các đèo chạy cắt ngang đổ từ nói ra biển tạo nên các vùng đồng bằng nhỏ và liên lạc với nhau bằng đường bộ rất khó khăn. Người ta liên lạc chủ yếu với nhau bằng đường biển. Nhưng điều đó không phải là điều kiện đủ để mỗi vùng tạo thành một tiểu vương quốc tự trị. Nhiều di tích văn hoá Chăm c̣n lại đến ngày nay cho thấy các vùng ở Champa tương đối độc lập về không gian nhưng vẫn tiếp nối nhau về mặt thời gian. Xét vị trí, vai tṛ của các kinh đô, ta sẽ thấy rơ hơn điều này.
Sinhapura là kinh đô duy nhất của Champa cho đến cuối thế kỷ VII, đầu thế kỷ VIII. Từ giữa thế kỷ VIII đến giữa thế kỷ IX Virapura là nơi tập trung về quyền lực chính trị và kinh tế trên toàn vương quốc. Không phải ngẫu nhiên mà vào thế kỷ VIII, Java để chứng tỏ sức mạnh thuỷ quân của ḿnh đối với toàn khu vực đă liên tiếp tấn công các nước Đông Nam Á lục địa. Hai lần đánh Champa là đánh kinh đô miền Nam Virapura và phá huỷ Kauthara. Người Java không tấn công vào Trà Kiệu hay thánh địa Mỹ Sơn giàu có trong khi họ đă đánh cướp đến tận vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trường hợp cá biệt vào nửa sau thế kỷ XII ChamPa mới có hai kinh đô song song tồn tại nhưng là dưới sự tác động của những yếu tố bên ngoài.
Simhapura, Virapura rồi lại Đồng Dương, Vijaya, trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau kinh đô lại dịch chuyển. Mỗi kinh đô đại diện cho quyền lực, sự thống nhất, tập trung của vương quốc vào mỗi thời kỳ lịch sử. Nhưng mặt khác, sự dịch chuyển kinh đô cũng có nghĩa là sự dịch chuyển quyền lực, thay thế quyền lực giữa hai bộ phận quư téc Bắc-Nam. Và như thế sẽ có thể giúp chứng minh xu hướng thống nhất và phân liệt luôn có mặt trong lịch sử Champa, thể hiện cả trong các mối quan hệ với bên ngoài.
Dấu vết của những kinh thành cũ như Trà Kiệu, Đồng Dương, Chà Bàn…đều gắn với những ḍòng sông và có mối liên hệ mật thiết với biển khơi. Nhiều tháp Chăm được xây dựng gần biển, thậm chí sát biển, không chỉ phục vụ cho nhu cầu tinh thần của nhân dân địa phương mà c̣n cho cả thuyền nhân nhiều nước…
Champa nổi tiếng là nơi có nhiều sản vật quư hiếm. Vàng, các loại gỗ thơm, ngà voi, sừng tê luôn được nhắc tới trong các nguồn tư liệu nước ngoài. người ta gọi Champa là xứ s của trầm hương, trong đó tập trung nhiều nhất ở vùng Kauthara. Trầm hương là một mặt hàng quư dùng để cống phẩm và trao đổi buôn bán.
Nhà nghiên cứu Y.Sakurai cho rằng Champa là một trong những thể chế có khuynh hướng buôn bán nhỏ, hướng nền kinh tế ra bên ngoài, một đặc điểm của những quốc gia Đông Nam Á có lănh thổ hẹp, dân cư Ưt, giàu lâm sản nhưng không có nền nông nghiệp phát triển . Và nếu theo quan điểm này th́ Champa “chỉ là một thể chế biển?”. K.Hall th́ cho rằng hệ thống chính trị, kinh tế Champa “giống các quốc gia sông nước Malay hơn là những quốc gia láng giêng làm nông nghiệp trồng lúa nước ở lục địa về phía Tây và phía Bắc của nó”, và Hall c̣ng cho rằng: “kinh tế Champa chủ yếu là dùa trên hoạt động cướp đoạt bằng đường biển”. Nhưng học Momoki Shiro đă không đồng ư kiến với K.Hall, khi ông cho rằng: “…chóng ta không thể coi ChamPa là vương quốc cướp biển như Srivijaya. ChamPa cũng không có một nền kinh tế hoàn toàn dùa vào cướp bóc như Sulu trong những thế kỷ XVIII-XIX, mặc dù đă có không Ưt tù nhân và nô lệ được mua về ở ChamPa”.
Nhiều nhà nghiên cứu cổ điển đă nói đến sự tồn tại và phát triển của kinh tế nông nghiệp ở Champa. Dùa trên nguồn tư liệu trong thư tịch cổ Trung Hoa, về sản phẩm nông nghiệp của Champa, G.Maspero cho rằng: “Có Ưt đồng bằng, đất trồng trọt th́ hiếm, Ưt lúa nhưng nhiều rau đậu…, trồng nhiều cây ắn quả…trồng dâu để nuôi tằm và trồng bông. Đến mùa bông nở, bông trắng như lông ngỗng. Người ta lấy bông ra rồi kéo sợi để dệt vải thô…, nhuộm đi dệt thành vải ngụ sắc và vải lốm đốm”. Trong những sản phẩm kể trên th́ vải bông đă đạt được tŕnh độ phát triển cao, một thứ hàng quư dùng để cống phẩm và trao đổi.
Chủ nhân văn hoá Champa đă biết khai thác và tận dụng mọi thế mạnh của các hệ sinh thái. Theo các nguồn thư tịch Hoa – Tây, Champa đă tranh thủ xuất khẩu đủ mọi thứ, từ nước lă ở các giếng Chàm ven biển đến Trầm hương, mă năo ở núi rừng, duy chỉ có một món hàng cấm xuất khẩu, v́ thiếu, đó là lúa gạo[11]. Ở vùng ven biển, có cả một hệ thống giếng Chàm để cung cấp nước ngọt cho tàu thuyền quốc tế ven biển.
Người Chàm và văn hoá Champa trong khoảng 15-16 thế kỷ tồn tại đă thích ứng và ứng biến tài t́nh với mọi hệ sinh thái từ núi rừng tới biển khơi.
Cư dân Champa là những thương nhân giỏi. Dùa theo những ḍng sông lớn ở miền Trung Việt Nam, họ biết thiết lập một hệ thống trao đổi hàng hoá từ miền xuôi lên miền ngược, một mô h́nh kinh tế rất phù hợp với địa lư của vùng đất này, giữa cư dân miền biển và miền núi; chẳng hạn, có thể họ đă h́nh thành một hệ thống nội thương để trao đổi các loại muối, mắm, tôm, các khô, đường mía, vải sợi, đồ gốm, mă năo, thuỷ tinh, đồ đồng thau…từ miền xuôi để đổi lấy những loại lâm sản quư như: Trầm hương, quế, mật ong, hồ tiêu, các loại gia vị, ngà voi, sừng tê ngưu, thó lạ, chim quư, các loại cây gỗ quư…của các cư dân miền ngược; nguồn hàng quư hiếm này được tập trung tại các cảng – thị, nơi có hệ thống ngoại thương để trao đổi buôn bán với các thương nhân Ên Độ, Ả Rập, Trung Hoa, Nhật Bản…Có nhiều cảng – thị lớn được thiết lập tại các cửa biển trọng yếu như cửa Nhật Lệ (Quảng B́nh), cửa Việt (Quảng Trị), cửa Tư Hiền (Thừa Thiên Huế), cửa Đại Chiêm (Hội An, Quảng Nam), cửa Thi Nại (Quy Nhơn), cửa Nha Trang (Khánh Hoà), cửa Phan Rang (Ninh Thuận), cửa Phan Rí, cửa Phan Thiết (B́nh Thuận) .
1.3. Chính trị - xã hội
Về lịch sử của vương quốc Champa giai đoạn từ khi mới thành lập đến thế kỷ X, trên đại thể, có 3 vương triều kế tiếp nhau:
- Vương triều Gangaragia (cuối thế kỷ II- đầu thế kỷ VIII) đặt kinh đô ở Trà Kiệu (huyện Duy Xuyên, Quảng Nam).
- Vương triều Panđuranga (giữa thế kỷ VIII- giữa thế kỷ IX), kinh đô thường đặt chủ yếu tại Phan Rang (Ninh Thuận), nhưng Nha Trang (Khánh Hoà) là nơi thờ cúng chính.
- Vương triều Đồng Dương ( Inđrapura ), giữa thế kỷ IX- cuối thế kỷ X, đặt kinh đô ở làng Đồng Dương (huyện Thăng Bình, Quảng Nam ).
Các học giả hiện đại quan niệm thể chế chính trị và hành chính của vương quốc Chăm Pa theo hai thuyết đối lập nhau. Mặc dù các học giả đều thống nhất việc vương quốc Chăm Pa bị chia nhỏ thành năm địa khu (Panduranga, Kauthara, Amaravati, Vijaya, Indrapura) chạy từ Nam lên Bắc dọc theo bờ biển Việt Nam ngày nay và được thống nhất bởi ngôn ngữ, văn hóa và di sản chung. Tuy nhiên, các học giả không thống nhất việc năm địa khu này có cùng thuộc một thực thể chính trị đơn nhất, hay là các địa khu này hoàn toàn độc lập với nhau như là các tiểu quốc. Nhiều tác giả quan niệm Chăm Pa là một liên bang bao gồm nhiều tiểu quốc, tuy có chính quyền trung ương thống nhất nhưng các tiểu vương hoàn toàn tự quyết cai trị tiểu quốc của mình. Một thực tế là không phải lúc nào các tài liệu lịch sử cũng phong phú đối với mỗi địa khu ở tất cả các giai đoạn. Ví dụ, vào thế kỷ thứ 10, tài liệu về Indrapura rất phong phú trong khi ở thế kỷ thứ 12 lại rất giàu tài liệu về Vijaya; còn sau thế kỷ thứ 15, tài liệu về Panduranga rất phong phú. Một số học giả xem việc biến động của các tài liệu lịch sử trên là phản ánh việc di dời của thủ đô Chăm Pa và quan niệm Chăm Pa nếu không phải là một thể chế chính trị đơn nhất thì cũng là một liên bang các tiểu quốc và việc tài liệu phong phú chính minh chứng cho điều này là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả nhận thấy, thế kỷ thứ 10 tài liệu về Indrapura rất phong phú, có lẽ xuất phát từ lý do đây là thủ đô của Chăm Pa. Các học giả khác không nhất trí như vậy và cho rằng Chăm Pa chưa bao giờ là một quốc gia thống nhất và không cho rằng việc giàu cứ liệu ở một giai đoạn lịch sử là cơ sở để cho rằng đó là thủ đô của quốc gia thống nhất .
Xã hội người Chăm ở vương quốc Champa cổ là xã hội của cư dân sản xuất nông nghiệp và quan hệ chủ yếu trong xã hội cũng là những quan hệ về ruộng đất, về chế độ sớ hữu và các hình thức sử dụng ruộng đất đó. Vua là nhân vật chuyên chế, có uy quyền tuyệt đối, nhưng chưa thấy sự xuất hiện các lãnh địa riêng của nhà vua, cũng hoàn toàn chưa thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ các quý tộc và quan lại có lãnh địa riêng hay có ruộng đất riêng. Một khi không thấy có sở hữu ruộng đất lớn của vua và quý tộc - quan lại thì ta có thể nghĩ rằng hầu hết ruộng đất đều do người nông dân giữ và canh tác. Ruộng đất ở đây vẫn được coi là ruộng đất chung của công xã. Người nông dân vẫn sống theo từng làng (tức công xã) và có thể làng đã giao ruộng đất cho từng gia đình nông dân công xã canh tác. Công xã là nơi duy trì các mối quan hệ cộng đồng và thân tộc trong đời sống kinh tế và tinh thần. Quá trình phân hóa và phát triển của xã hội diễn ra tương đối chậm.
Xã hội Champa cổ đã sớm hình thành tầng lớp nô lệ. Nô lệ phục vụ trong các gia đình quý tộc và đền miếu, trong những công việc và phạm vi mà người ta không thể cưỡng bức lao động của nông dân công xã. Nô lệ đã trở thành một thành phần không thể thiếu của cơ chế xã hội Champa cổ. Như vậy, xã hội Champa mang những đặc trưng cơ bản của khu vực Đông Nam Á.
Trong tình hình kinh tế và sự phân hóa xã hội như thế, vương quốc cổ Champa tồn tại và phát triển trong nhiều thế kỷ dưới một bộ máy chính quyền không ngừng được củng cố với ý thức thâu tóm chặt chẽ toàn bộ lãnh thổ và quyền chuyên chế của vua đã được tăng cường đến mức cực đoan. Giúp việc cho vua có cả một bộ máy gồm các quan ở trung ương và địa phương. Vương quốc Champa cổ chú trọng xây dựng và phát triển quân đội làm hậu thuẫn cho chính quyền. Quân đội Champa đông tới 4-5 vạn người, được cấp lương bằng hiện vật như quần áo, thóc gạo... Ngoài bộ binh, họ còn có kỵ binh, tượng binh và thủy binh với lực lượng mạnh.
1.4. Nghệ thuật
Văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ và Campuchia đều có ảnh hưởng đến văn hóa Chăm Pa. Ban đầu văn hóa Chăm Pa gắn với văn hóa và truyền thống tôn giáo Trung Quốc, nhưng từ thế kỷ thứ 4 vương quốc Phù Nam ở Campuchia và miền Nam Việt Nam ngày nay đã truyền bá văn minh Ấn Độ vào xã hội Chăm. Tiếng Phạn trở thành ngôn ngữ học thuật, và Ấn giáo, đặc biệt là Si-va giáo, trở thành quốc giáo. Từ thế kỷ thứ 10, các thương nhân Ả Rập đã mang tôn giáo và văn hóa đạo Hồi vào khu vực. Chăm Pa có vai trò trung chuyển quan trọng trên con đường hồ tiêu từ vịnh Pec-xich tới miền Nam Trung quốc và sau này là con đường thương mại trên biển của người Ả Rập, xuất phát từ bán đảo Đông Dương - nơi xuất khẩu trầm hương. Mặc dù giữa Chăm Pa và đế quốc Khmer luôn có chiến tranh, nhưng thương mại và văn hóa vẫn được giao lưu về cả hai phía. Hoàng gia của hai vương quốc cũng thường xuyên lấy lẫn nhau. Chăm Pa còn có quan hệ thương mại và văn hóa với các đế quốc hùng mạnh trên biển như Srivijaya và sau này với Majapahit trên bán đảo Mã Lai.
Giai đoạn nghệ thuật miền bắc: Thế kỷ 7 – thế kỷ 11
Từ thế kỷ thứ 4, người Chăm pa đã xây dựng đền thờ tại Mỹ Sơn[9] nhưng không còn tới ngày nay. Các di tích đền tháp còn lại được phát hiện có niên đại sớm nhất cũng là vào nửa sau của thế kỷ thứ 7. Các ngôi đền tháp này thuộc thời gian này cho đến năm 980 đều thuộc cùng một giai đoạn là giai đoạn nghệ thuật miền bắc. Các tháp thuộc giai đoạn này đều đơn giản, làm bằng gạch nung màu đỏ, có chân đế là một khối hình chữ nhật, các mặt tháp đều có bố trí mi cửa ẩn, trừ hướng có cửa chính, trên đó có nhiều hình điều khắc của các vị thần. Mi cửa được đỡ bằng bộ khung các trụ bổ tường cao và hẹp cùng các đầu cột xòe ngang. Cũng chính các trụ bổ tường này đỡ vòm cửa. Trên vòm và trên các trụ bổ tường có chạm khắc các phù điêu theo thần thoại Ấn độ, với các chạm khắc tập trung chính ở đầu cột. Mái tháp thường gồm ba tầng, mỗi tầng đều có bao lơn nhỏ ở phía trên mi cửa. Bên trong tháp đều có bệ thờ với hình ảnh triều đình theo kiểu Ấn độ.
Theo các tác giả Philippe Stern (Nghệ thuật Champa, 1942) and Jean Boisselier (Điêu khắc Champa, 1963) được nhà sử học Jean-François Hubert tổng hợp[10] thì có thể phân chia giai đoạn này thành các phong cách sau:
Phong cách Mỹ Sơn E1: Thế kỷ 7 - thế kỷ 8
Phong cách được xác định sớm nhất là Mỹ Sơn E1. Phong cách thời kỳ này phản ánh ảnh hưởng từ bên ngoài của văn hóa tiền Angkor và cả nghệ thuật Dvaravati và miền Nam Ấn độ.
Tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn E 1 là ở bệ thờ bên trong tháp làm bằng đá cát kết có hình dạng linga tượng trưng cho ngọn núi là nhà của thần Si-va, xung quanh có chạm các tu sĩ đang tu luyện trong rừng núi hay hang động, với các hình dạng như đang chơi các loại nhạc cụ khác nhau, đang giáo hóa cho các loài vật và cả đang thư giãn. Một công trình tiêu biểu nữa là phù điêu ở trên lối vào chính chạm khắc buổi bình minh thời đại theo thần thoại Ấn độ. Thần Vishnu đang nằm ngủ ở dưới đáy biển, trên giường là rắn thần Sesha. Một bông hoa sen từ từ mọc lên từ rốn của thần. Thần Brahma từ từ đứng lên trong bông hoa sen đó để tạo ra cả vũ trụ này.
Phong cách Đồng Dương: Thế kỷ 9 - thế kỷ 10
Phong cách Đồng Dương mở đầu bằng các tháp Hòa Lai (nửa đầu thế kỷ 9) với các vòm cửa nhiều mũi tròn với các trụ bổ tường hình bát giác làm bằng đá cát kết với các trang trí hình lá uốn cong. Sang Đồng Dương (nửa sau thế kỷ thứ 9) các trang trí chuyển thành những hình hoa lá hướng ra ngoài. Các tháp thuộc phong cách Đồng Dương đều có những hàng trụ bổ tường và vòm cửa khỏe khắn và có góc cạnh. Đây cũng là điểm khác biệt giữa phong cách Đồng Dương và Mỹ Sơn. Đỉnh cao của phong cách là kiến trúc một tu viện Phật giáo vào cuối thế kỷ 9. Bức tường tu viện dài đến một cây số và có rất nhiều tượng Phật. Rất tiếc là di tích đã bị phá hủy nhưng nhiều học giả cho rằng khi còn nguyên vẹn, di tích này cũng giống như các tu viện Phật giáo ở miền Bắc Ấn Độ. Một số hiện vật thuộc di tích còn được giữ lại ở các bảo tàng cho thấy điêu khắc thời kỳ này có tính uyển chuyển, phong phú và thể hiện những hình khắc gần gũi với chính nguời Chăm hơn là những ảnh tượng của các vị thần. Các bức tượng có mũi và môi dày và không hề cười[14]. Các đề tài là Đức Phật, các vị sư, các hộ pháp dvarapalas, bồ tát Avalokiteshvara (Quán Thế Âm) và nữ thần tình thương Tara, người được xem là vợ của Avalokiteshvara.
Phong cách Mỹ Sơn A1: Thế kỷ 10 - thế kỷ 11
Ở phong cách này các trụ bổ tường đứng thành đôi một với bức tường hình người ở giữa như trong tháp Mỹ Sơn A1. Các vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc. Thân tháp cao vút với các tầng dần thu nhỏ lại. Đây là thời kỳ chịu ảnh hưởng của Java và cũng là thời hoàng kim của Chăm Pa[16]. Phong cách này đặt tên theo tòa tháp có cùng ký hiệu nhưng do hậu quả của chiến tranh đến nay không còn. Các tháp thuộc nhóm B, C và D trong khu di tích thánh địa Mỹ Sơn cũng thuộc phong cách này. Đến thời kỳ này, đối ngược với vẻ khỏe khoắn và có phần dữ tợn của phong cách Đồng dương, phong cách Mỹ Sơn A 1 có tính động, dường như đang nhảy múa, với vẻ đẹp duyên dáng. Các vũ công là các họa tiết được ưa chuộng của các nhà điêu khắc Chăm thời kỳ này. Bên cạnh đó các linh vật cả trong cuộc sống thực lẫn từ thần thoại cũng là một chủ đề được ưa thích như voi, hổ, garuda:
Thần Indra: Thường được thể hiện ở tư thế ngồi trên bệ với tay cầm lưỡi tầm sét, chân xếp bằng và một con voi là vật cưỡi của thần đang phủ phục.
Bò Nan-din: Là vật cưỡi của thần Si-va thường thẻ hiện dưới tư thế nằm và thuộc dạng tượng tròn.
Ga-ru-da: Là linh vật mà thần Vis-nu thường cưỡi và là kẻ thù của rắn thần Naga. Các phù điêu do vậy thường chạm hình chim thần Ga-ru-da đang nuốt hoặc dẫm lên hoặc đạp rắn thần Naga.
Sư tử: Thường là sư tử đực ở tư thế ngồi với hai chân trước đứng.
Thần Si-va: Thường đươc thờ dưới hình tượng linga, hay với kiểu tóc búi (jatanlinga) hoặc trang trí mặt người (kosa).
Cũng thuộc phong cách Mỹ Sơn A 1 này còn có cả các nhóm tháp ở Khương Mỹ và các di vật ở Trà Kiệu. Các công trình Khương Mỹ nằm trong giai đoạn chuyển tiếp giữa Đồng Dương và Mỹ Sơn A1. Đồng thời chịu ảnh hưởng của Khmer và Java. Nhiều di vật điêu khắc của Trà Kiệu vẫn được lưu giữ ở các viện bảo tàng đặc biệt là bệ thờ Trà Kiệu. Bệ thờ làm gồm bệ đá với phù điêu và một khối ligam. Các phù điêu chạm các giai đoạn khác nhau của cuộc đời Krisna. Ở mỗi góc của bệ thờ có hình sư tử nâng đỡ cả khối kiến trúc nặng bên trên. Cũng thuộc phong cách Trà Kiệu còn có bệ đá chạm vũ công có hình vuông mà mỗi mặt đều có chạm hình vũ nữ apsara đang nhảy múa và các nhạc công gandharva đang chơi nhạc. Bệ đặt trên nền có chạm hình đầu sư tử và hình con makara.
Giai đoạn miền Nam: Sau thế kỷ 11 đến thế kỷ 15
Giai đoạn này còn được gọi là phong cách Bình Định hay Tháp Mẫm. Khởi đầu bằng các tháp ở Chánh Lộ có phong cách chuyển tiếp từ Mỹ sơn A1 sang Tháp Mẫm[21]. Một số hiện vật ở Tháp Mẫm vẫn còn dáng dấp cân đối, nhẹ nhàng nhưng phần lớn các điêu khắc đã trở nên thô với hình khối tròn mang tính bản địa dần dần chiếm lĩnh khắp các hình tượng Ấn giáo ở miền Nam. Các thiết kế kiến trúc với các đường nét sắc sảo nhất là các đường tròn uốn lượn dần dần chuyển sang phong cách mạnh mẽ với các hình khối ít chạm trổ cho thấy ấn tượng mạnh mẽ nhưng dường như không còn nét tinh tế nếu so sánh với phong cách Mỹ Sơn A1. Ở đây các vòm cửa thu lại và vút lên thành hình mũi giáo. Các tháp nhỏ trên các tầng bên trên cuộn tròn lại thành các khối đậm nhưng khỏe. Các trụ bổ tường thu hẳn vào trong tường thành một khối phẳng. Bề mặt tháp là các bức tường với những đường gân sống. Chỉ có các hình linh vật là có thể so sánh được với phong cách trước. Chạm khắc trong phong cách này đi vào chi tiết trang trí hơn là nhìn vào tổng thể vẻ đẹp và tính động của hình tượng. Một trong các họa tiết của phong cách Tháp Mẫm là chạm trên đá một hàng các bộ ngực phụ nữ xung quanh chân đế của một bệ thờ. Họa tiết này đã thấy ở Trà Kiệu nhưng trở thành điển hình cho phong cách Tháp Mẫm và là một họa tiết độc đáo trong nền nghệ thuật Đông Nam Á .
1.5. Tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm
Vương quốc Chămpa cổ từng có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng. Họ tôn thờ Nữ Thần Mẹ của vương quốc là Pô Inư Nagar theo truyền thống tín ngưỡng Mẫu hệ lâu đời của cư dân Đông Nam Á. Tín ngưỡng này còn tồn tại khá đậm nét trong xã hội người Chăm hiện nay. Từ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa – văn minh Ấn Độ người Chăm cổ theo Ấn Độ giáo, quốc vương là người quyết định tôn giáo chính thống của vương quốc. Tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, thờ một hay cả ba vị Thần của Tam vị nhất thể là Brahma – Visnu – Siva. Tuy nhiên người Chăm cổ tôn sùng thần Siva hơn cả. Các văn bia cổ bằng chữ Phạn (Sanskrit) trong khu Mỹ Sơn đã tôn Siva là Chúa tể của muôn loài, là cội rễ của nước Chămpa. Thần Siva thường được thờ bằng ngẫu tượng sinh thực khí nam giới. Ngoài ra người Chăm cổ còn theo cả Phật giáo với trung tâm Đồng Dương (Quảng Nam) phát triển cực thịnh hồi thế kỷ IX – X. Bên cạnh việc tiếp nhận tôn giáo Ấn Độ, người Chăm cổ đã tiếp thu cả mô hình tổ chức chính quyền nhà nước mà nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra đặc trưng chủ yếu là vương quyền kết hợp với thần quyền, các quốc vương Chămpa thường được đồng nhất với thần Siva.
Trước khi bị vua Lê Thánh Tông chinh phục năm 1471, tôn giáo chính của người Chăm là Ấn độ giáo, và nền văn hóa Chăm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ. Ấn độ giáo ở Chăm Pa chủ yếu là Si-va giáo, tức là đạo thờ thần Shiva, và có ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo bản địa như thờ nữ thần Đất Yan Po Nagar. Biểu tượng chính của tôn giáo Si-va của người Chăm là linga, mukhalinga, jatalinga, linga chia tầng và kosa.
Linga (hay còn gọi là lingam) là một cột trụ có hình dương vật đại diện cho Shiva. Các vua Chăm thường xuyên dựng và cúng các linga bằng đá để thờ ở trung tâm các đền tháp của hoàng gia. Tên mà vua Chăm đặt cho một linga sẽ bao gồm tên của nhà vua và đuôi "-esvara," tức là Shiva.
Mukhalinga là một linga mà trên đó có vẽ hoặc chạm hình ảnh Shiva dưới dạng hình người hay hình khuôn mặt.
Jatalinga là một linga mà trên đó chạm phong cách điển hình của Shiva là kiểu tóc búi.
Linga phân tầng là một cột linga chia làm ba phần đại diện cho ba thể (trimurti) của thượng đế trong Ấn giáo: phần dưới cùng, là một khối hình lập phương, tượng trưng cho Brahma; phần ở giữa, là một hình lăng trụ tám mặt, đại diện cho Vishnu; và phần trên cùng, có hình tròn, đại diện cho Shiva.
Kosa là một khối kim loại hình trụ được sử dụng để che phủ cho linga. Việc hiến tế một kosa để trang trí cho linga là một nét đặc trung độc đáo của đạo Si-va của người Chăm. Các vua Chăm thường đặt tên cho các kosa đặc biệt cũng theo cách họ tự đặt tên cho các linga.
Việc Ấn giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế của người Chăm bị gián đoạn từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 10 khi triều đại Indrapura (Đồng Dương ở tỉnh Quảng Nam ngày nay) theo Phật giáo Đại thừa. Phong cách nghệ thuật Phật giáo Chăm Pa thời Đồng Dương được công nhận là một trong những phong cách độc đáo.
Trong thế kỷ thứ 10 và các thế kỷ sau, Ấn Độ giáo lại trở thành tôn giáo chính của Chăm Pa. Một số nơi vẫn còn lưu giữ những công trình tôn giáo và cũng là các công trình kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này như Mỹ Sơn, Khương Mỹ, Trà Kiệu, Chánh Lộ và Tháp Mẫm.
Hồi giáo
Hồi giáo bắt đầu xâm nhập vào Chăm Pa từ sau thế kỷ thứ 10, nhưng chỉ sau năm 1471 thì ảnh hưởng của Hồi giáo mới rõ nét. Vào thế kỷ thứ 17 thì hoàng gia Chăm đã theo đạo Hồi và cũng từ đó phần lớn người Chăm bắt đầu theo đạo này, và khi vùng đất này bị sáp nhập vào Việt Nam thì phần lớn người Chăm ở đây đã theo đạo Hồi. Phần lớn người Chăm đều là người Hồi giáo và cũng giống như người Java ở Indonesia, họ còn chịu nhiều ảnh hưởng của Ấn giáo. Các văn bản của Indonesia còn ghi lại câu chuyện công chúa Darawati, một công chúa Chăm đã ảnh hưởng đến chồng là Kertawijaya, người cai trị đời thứ bảy của Majapahit, tượng tự như câu chuyện với Parameshwara, người đã cải đạo Hồi cho hoàng gia Majapahit. Ngôi mộ của Putri Champa (công chúa Chăm) vẫn còn thấy ở Trowulan, nơi xưa kia là thủ đô của Majapahit .
1.7. Ảnh hưởng của tín ngưỡng Hồi Giáo trong cộng đồng cư dân Chăm ở nước ta
2. Di sản của vương quốc Chămpa
2.1. Di sản vật thể
Từ nhiều thế kỷ trước công nguyên, người Trung Hoa và người Ấn Độ đã vượt biển đi buôn bán trao đổi với nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có vùng Đông Nam Á. Vì vậy dấu tích của họ để lại khá rõ nét trong nhiều nền văn hóa ở khu vực này.
Trên cơ sở nền tảng là văn hóa Sa Huỳnh,vương quốc Chămpa những thế kỷ đầu khi mới giành được độc lập cũng chịu khá nhiều ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa mà chứng tích để lại là những đồng tiền Ngũ Thù thời Tây Hán (từ 206 trước công nguyên đến năm 25 sau công nguyên), tiền Vương Mãng triều Tân từ năm 8 - 25 sau công nguyên, sưu tập gương đồng tìm thấy ở khu vực miền Trung có niên đại thế kỷ I – III, nhiều tượng Phật, mảnh gốm men ngọc, men màu, vũ khí sắt… trong một khung niên đại khá dài. Tư liệu lịch sử còn ghi chép việc các vua Chămpa “xây cung điện theo kiểu Trung Quốc, có những buồng những cột, cách đào hào đắp lũy để bao bọc lấy thành thị, cách đóng xe dùng trong trận mạc và nhiều loại vũ khí, dạy cho thợ làm nhạc khí…” . Những đầu ngói ống trang trí mặt hề, động vật tìm thấy tại những di tích thành cổ Chămpa được coi là có nguồn gốc từ văn hóa Hán.
Những yếu tố của văn hóa Ấn Độ hiện diện rất sớm trên địa bàn của vương quốc Chămpa. Đó là những đồ trang sức và kỹ thuật chế tác đồ trang sức bằng mã não, thủy tinh, đá ngọc trong các mộ chum thuộc văn hóa Sa Huỳnh. Trong các di tích thuộc văn hóa Sa Huỳnh giai đoạn muộn chuyển sang văn hóa Chămpa sớm ở Trà Kiệu, còn tìm thấy loại đồ gốm ở miền Đông Ấn Độ có niên đại từ thế kỷ III trước công nguyên đến thế kỷ I sau công nguyên. Từ khi giành được độc lập thì những mối quan hệ giao lưu kinh tế – văn hóa với Ấn Độ càng được tăng cường bằng phương thức khá hòa bình là theo những đoàn thương gia và tu sĩ truyền đạo nên được cư dân bản địa dễ dàng tiếp thu và chấp nhận. Vì vậy, ảnh hưởng nhiều mặt của văn minh Ấn Độ đã hầu như trở thành chủ đạo trong vương quốc Chămpa.
Sử liệu chữ viết về vương quốc Chămpa có niên đại sớm nhất là tấm bia Võ Cạnh (Nha Trang) được xác định niên đại thế kỷ III. Nhưng những chứng tích phong phú và đa dạng, phản ánh khá toàn diện về vương quốc Chămpa thì thể hiện tập trung tại các khu di tích đền tháp Chămpa.
Khu vực Quảng Bình – Quảng Trị – Thừa Thiên Huế: hiện biết khoảng 30 di tích văn hóa Chămpa, tập trung thành từng nhóm ở bờ nam sông Gianh tiêu biểu là thành Cao Lao Hạ, những minh văn trong hang động Phong Nha ở Quảng Bình. Nhóm ven sông Thạch Hãn của đồng bằng Quảng Trị có Cổ thành, tháp Hà Trung. Nhóm ở đồng bằng Thừa Thiên Huế: thành Lồi, tháp Liễu Cốc, tháp Vân Trạch Hòa, tháp Mỹ Khánh…
Khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi : đây được xem là vùng trung tâm của vương quốc Chămpa. Tại đây tập trung những di tích quan trọng và lớn nhất, với nhiều loại hình di tích nhất. Đó là khu di tích Trà Kiệu (xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), ở đây còn dấu tích của thành cổ, nơi cư trú… được các nhà nghiên cứu cho rằng đây là kinh thành Sư Tử Sinhapura. Xung quanh Trà Kiệu gần đây đã phát hiện và khai quật nhiều di chỉ cư trú hay phế tích kiến trúc như Gò Cấm, Chùa Vua, Triền Trang, Chiêm Sơn Đông, Chiêm Sơn Tây. Thánh địa Mỹ Sơn – trung tâm tôn giáo lớn nhất của người Chăm – là một khu đền tháp tập trung trong một thung lũng, cách Trà Kiệu khoảng 20km về phía Tây. Hiện nay khu di tích này còn khoảng 70 đền tháp khá nguyên vẹn và rất nhiều đền tháp bị hư hỏng do thời gian và chiến tranh. Trung tâm Phật giáo Đồng Dương và là kinh thành Indrapura của vương quốc Chămpa trong thế kỷ IX – X. Tại đây còn dấu tích tường thành, đền tháp, di tích cư trú, nhiều tượng Phật giáo bằng đồng nổi tiếng đã được phát hiện tại đây.
Ngoài các trung tâm trên, khu vực Quảng Nam - Quảng Ngãi còn có các di tích: Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bằng An (Quảng Nam), thành Châu Sa, di tích Chánh Lộ, Khánh Vân, An Tập, Cổ Lũy... phần lớn còn lại là phế tích (Quảng Ngãi).
Khu vực Bình Định: Là một kinh đô của người Chăm trong gần 5 thế kỷ, từ thế kỷ XI – XV, vì vậy ở đây có tới 4 di tích thành cổ (Thị Nại, Thành Tra, Đồ Bàn, Chánh Mân), hàng chục đền tháp khá nguyên vẹn như khu tháp Bánh Ít, Dương Long, Hưng Thạnh… và nhiều phế tích đền tháp khác. Ngoài ra, Bình Định còn nổi tiếng với trung tâm sản xuất gốm Gò Sành.
Khu vực Phú Yên – Khánh Hòa: Các di tích ở hạ lưu sông Đà Rằng thuộc đồng bằng Tuy Hòa là Tháp Nhạn và Thành Hồ cùng với hàng chục phế tích khác. Nổi tiếng là khu tháp Pô Nagar ở Nha Trang – được coi là thánh địa phía Nam của Chămpa và đến nay vẫn còn thờ Thiên Yana – một tín ngưỡng cổ của người Chăm.
Khu vực Ninh Thuận – Bình Thuận: có nhiều di tích từ niên đại sớm đến muộn, như Hòa Lai, Pô khaung Garai, Pô Romê ở Ninh Thuận; Pô Đam, Phú Hài ở Bình Thuận… Nơi đây hiện là địa bàn cư trú chính của người Chăm nên các khu đền tháp vẫn là nơi để người Chăm sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo.
Khu vực Tây Nguyên có một số di tích đền tháp và phế tích Chămpa ở Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum nhưng niên đại khá muộn.
Chứng tích phổ biến và tiêu biểu nhất của vương quốc Chămpa là những kiến trúc đền tháp có mặt ở tất cả các khu vực và trong mọi giai đoạn lịch sử. Trải qua hàng chục thế kỷ nhiều nhóm đền tháp đã trở nên hoang phế, không còn đầy đủ các công trình tạo lập thành một tổng thể như khi mới khởi dựng, mà hầu như chỉ còn lại một công trình đứng đơn lẻ, nhất là các di tích ven biển miền Trung. Thật ra các nhóm đền tháp Chămpa bao giờ cũng có một nhóm, một tổng thể hoàn chỉnh phản ánh vũ trụ quan Ấn Độ. Theo đó vũ trụ có hình vuông, chung quanh có núi và đại dương bao bọc, chính giữa là một trục xuyên đến mặt trời. Đền thờ Ấn Độ giáo thể hiện rõ vũ trụ quan này với khuôn viên được quy định vuông vắn, tường bao quanh xây cao, vuông góc với nhau tượng trưng là núi. (Tuy nhiên do địa hình nên nhiều khi không hoàn toàn tuân thủ nguyên tắc này). Các công trình trong tổng thể được bố cục theo một đường trục chạy giữa, hướng chính là hướng đông – hướng của thần thánh, của sự sinh sôi nảy nở. Cũng do hạn chế về địa hình nên có nhóm tháp quay về hướng khác như nhóm Pô Tằm quay về phía tây nam, các nhóm A, G, E, F ở Mỹ Sơn quay về phía tây – còn được coi là quay về phía ngôi đền đá B1, trung tâm của thánh địa.
Trung tâm của một nhóm đền tháp bao giờ cũng là một đền thờ lớn kalanđược xây dựng lớn nhất, quy mô nhất. Kiến trúc này có mặt bằng cơ bản hình vuông, bốn hướng có 4 cửa, nhưng chỉ có một cửa ra vào mở theo hướng chính của cả nhóm đền tháp là hướng đông, còn các cửa khác là cửa giả xây nhô ra trên mặt các bức tường. Một Kalan thường có ba phần: đế, thân và mái tượng trưng cho ba thế giới: trần tục (bhurloka), tâm linh (Bhurvaloka) và thần linh (Svarloka). Các tầng và các mặt tường kalan được trang trí bởi nhiều đề tài, mô típ trang trí ngay trên gạch xây dựng hoặc bằng đá sa thạch. Phần chân đế trang trí các đồ án hoa lá, hình voi, sư tử, những vòm cuốn nhỏ chạm hình tượng kala - makara hoặc các cảnh vũ nữ apsara và nhạc công. Trước thế kỷ X phần chân đế kalan hoàn toàn bằng gạch. Những kalan có niên đại muộn hơn thường gắn ốp các thành phần bằng đá sa thạch.
Phần thân kalan: bề mặt ngoài trang trí bằng những trụ áp tường, mỗi mặt tường thường có 5 trụ áp tường mà trụ chính giữa bị cửa giả che khuất. Trong ô cửa giả bao giờ cũng có phù điêu hình người đứng cầu nguyện với hai tay chắp trước ngực hay cầm một bông sen. Tiếp giáp thân và mái là diềm mái là những đường gờ cong lồi hoặc lõm chạm khắc các băng hoa dây. Bốn góc diềm mái gặp nhau gắn những vật trang trí góc bằng đá hình ngọn lửa hay hình tượng makara, apsara.
Mái kalan có ba tầng và một đỉnh, tầng trên là thu nhỏ của tầng dưới với đầy đủ các thành phần như cửa giả, trụ áp tường, diềm mái… Trên tầng mái có đặt nhiều tượng, phù điêu đá tạo hình các con vật cưỡi của các vị thần Ấn Độ giáo (ngỗng thần Hamsa, chim thần Garoda, bò thần Nandin…). Các góc của tầng thứ nhất và thứ hai dựng bốn tháp góc. Tầng cuối cùng không có tháp trang trí góc mà đỡ một chóp đá lớn (àmalaka) tượng trưng cho đỉnh núi Kailàsa – nơi cư ngụ của thần Siva. Trước kia các chóp đá này thường dát bọc vàng bạc để chứng tỏ lòng thành kính và sự tôn quý.
Khác biệt với kiến trúc nhiều tôn giáo khác, đền thờ Ấn Độ giáo có nội thất nhỏ kiểu mật thất. Tường Kalan cũng như những đền tháp Chămpa khác nói chung rất dày khoảng 1m. Mặt tường trong của phần thân tháp xây phẳng, 3 phía Bắc, Nam, Tây có những khám nhỏ để đèn. Phần vòm mái được hình thành bởi các viên gạch xây so le nhô ra nhô dần ra để thu lại ở đỉnh nóc. Kiểu mái vòm này được coi là một sáng tạo trong kết cấu gạch của người Chăm cổ. Nội thất kalan chỉ vừa đủ để một đài thờ bằng đá ở chính giữa, có khi là tượng một vị thần nhưng phổ biến là bộ linga – yoni. Đài thờ có 3 phần: đế – bệ yoni – và linga, đây là biểu tượng chính của thần Siva.
Các kalan Chămpa phần lớn ảnh hưởng các đền tháp ở miền nam Ấn Độ với các tầng trên là sự thu nhỏ của tầng dưới. Ngoại lệ có một số nhóm mang phong cách miền bắc Ấn Độ như nhóm tháp Bằng An (Quảng Nam), Hưng Thạnh (Bình Định), Dương Long (Bình Định) có hình vòm cong.
Ngoài kalan chính trong khuôn viên vòng tường bao còn có các kalan nhỏ ở 4 góc, là đền thờ các vị thần phương hướng. Các đền tháp hướng đông, tây, bắc là sự thu nhỏ về kích thước, quy mô và cấu trúc của kalan chính. Đền tháp phía nam đặc biệt hơn cả, nó có mặt bằng hình chữ nhật, nội thất rộng rãi, có tường ngăn chia làm 2 phòng. Đây là kho lễ vật và có thêm chức năng là nơi chuẩn bị thức ăn dâng cúng trong lễ hội nên gọi là tháp hỏa hay tháp bếp. Cửa ra vào của tháp này bao giờ cũng mở về hướng bắc (lệch về tây) – hướng của thần tài lộc. Mặt tường đông và tây có cửa sổ có những chấn song bằng đá hình con tiện. Mặt tường phía nam của tháp này xây kín, trang trí bằng các trụ áp tường. Đền tháp phía nam có 2 tầng nhưng phần mái cong hình thuyền với hai mũi thuyền vươn cao, trang trí đẹp khiến nó trở thành một kiến trúc được chú ý hơn những đền tháp góc còn lại. Mặt khác, trên thực tế hầu như các đền tháp góc khác đã bị hư hỏng chỉ còn lại đền tháp phía nam.
Nằm ở bức tường phía đông và thẳng với trục kalan chính là tháp cổng có hai cửa đối diện, tuy hình thức tương tự kalan nhưng đơn giản hơn vì chức năng là cổng chính dẫn vào khu đền thờ. Thẳng trên trục này và nằm ngoài tường bao còn có tháp nhà, một kiến trúc hình chữ nhật khá dài. Đây là nơi tĩnh tâm cầu nguyện của tín đồ trước khi vào hành lễ trong khu đền tháp chính. Vì vậy tháp nhà có nội thất rộng rãi và thoáng, cửa mở hai hướng đông tây, tường phía bắc nam trổ nhiều cửa sổ. Mái lợp bằng ngói trên cấu kiện gỗ. Ở một số nhóm đền tháp lớn còn có tháp bia, mặt bằng hình vuông, mở cửa ra vào ở cả 4 phía, có chức năng che một tấm bia đá.
Tuy nhiên vẫn có một số nhóm đền tháp có bố cục khác, như nhóm Chiên Đàn, Khương Mỹ (Quảng Nam), Dương Long (Bình Định), Hòa Lai (Ninh Thuận). Mỗi nhóm có 3 kalan chính lớn gần bằng nhau, đứng cạnh nhau theo trục bắc Nam, cửa vẫn mở về hướng đông. Đây là những nhóm đền tháp thờ cả 3 vị thần Brama, Visnu và Siva. Phế tích và dấu vết còn lại cho biết các nhóm đền tháp này cũng có các công trình phụ trợ như trên.
Di vật trong văn hóa Chămpa vô cùng phong phú và đa dạng về chất liệu và loại hình. Từ những tác phẩm điêu khắc trên đá sa thạch, trên gạch , gốm, những bức tượng đồng đến những đồ thờ cúng và trang sức bằng vàng bạc… Tuy nhiên, gắn liền một cách hữu cơ với kiến trúc đền tháp là những tác phẩm điêu khắc trên đá, trên gạch xây dựng, thể hiện dưới hai loại hình:
1- các tác phẩm điêu khắc độc lập dùng để trang trí hay thờ cúng; và
2- các tác phẩm điêu khắc mang chức năng liên kết tham gia vào công trình kiến trúc tháp (tấm lá nhĩ, trụ cửa, mi cửa).
Kiến trúc đền tháp quy định nội dung và hình thức thể hiện của điêu khắc, ngược lại, điêu khắc góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa của việc xây dựng các công trình đền tháp. Điêu khắc Chămpa phổ biến trên chất liệu đá Silic màu xám, độ cứng cao, bề mặt thô và đá Granit màu xám xanh, thớ mịn. Kích thước hiện vật thường lớn. Phần lớn di vật điêu khắc Chămpa là dạng phù điêu nổi cao gần như tượng tròn, dù thể hiện nội dung, hình tượng nào thì vẫn mang tính hiện thực sâu sắc, nghệ thuật tả chân dung sinh động, tượng người và động vật đạt trình độ cao về giải phẫu sinh học, đề cao đặc điểm nhân chủng trong tượng người và các vị thần được nhân hóa. Điêu khắc Chămpa còn phản ánh hiện thực xã hội từ cuộc sống sinh hoạt đời thường đến những nghi lễ tôn giáo của vương quốc Chămpa.
Xác định niên đại và phong cách nghệ thuật cho di tích kiến trúc và tác phẩm điêu khắc Chămpa là một vấn đề cho đến nay chưa có sự nhất trí hoàn toàn giữa các nhà Chămpa học. Những nhà nghiên cứu phải dựa vào sự phát triển nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Chămpa, đồng thời phải so sánh đối chiếu với các nền nghệ thuật có liên quan như Ấn Độ, Môn, Khmer, Đại Việt, Java… để có thể định niên đại và phân chia giai đoạn cho kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc Chămpa từ thế kỷ VII đến thế kỷ XV. Vì vậy cho đến nay có nhiều cách phân chia những giai đoạn và phong cách của nghệ thuật Chămpa, những cách này có khác nhau đôi chút về tên gọi và niên đại. Theo nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương, dựa vào kết quả nghiên cứu của P. Stern, theo nghệ thuật trang trí, bình đồ kiến trúc cùng với sự phân tích kỹ thuật xây dựng của từng giai đoạn kiến trúc, đồng thời so sánh với những biến cố lịch sử có liên quan đến sự hưng vong của các vương triều Chămpa, dựa trên những minh văn liên quan đến từng di tích, quá trình chuyển hóa của nghệ thuật Chămpa, có thể sắp xếp phế tích đền tháp Chămpa theo những giai đoạn và phong cách một cách chi tiết như sau.
Phong cách Trà Kiệu sớm – cuối thế kỷ VII. Đây là giai đoạn và phong cách cổ nhất của nghệ thuật Chămpa. Hiện vật hầu hết tìm thấy từ Quảng Bình đến Quảng Nam, tiêu biểu là đài thờ Trà Kiệu niên đại cuối thế kỷ VII, hiện đang trưng bày ở Bảo tàng điêu khắc Chămpa (Đà Nẵng). Phong cách này chịu nhiều ảnh hưởng của miền Amavarati (Nam Ấn Độ).
- Phong cách An Mỹ – đầu thế kỷ VIII. Tiêu biểu là sưu tập các bức tượng bán thân các vị thần Ấn giáo phát hiện ở An Mỹ (Tam Kỳ, Quảng Nam). Bên cạnh sự ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ, nghệ thuật Môn (miền trung Thái Lan) phong cách này mang yếu tố bản địa Chămpa rõ hơn.
- Phong cách Mỹ Sơn E1 – thế kỷ VIII - IX. Hiện vật của phong cách này tìm thấy ở nhiều nơi nhưng tập trung trong khu Mỹ Sơn. Tác phẩm tiêu biểu là đài thờ và mi cửa kalan E1 và pho tượng Ganesa đứng ở E5 Mỹ Sơn. Giai đoạn này ảnh hưởng Ấn Độ mờ dần, mối liên hệ với khu vực láng giềng như Môn, Khmer được tăng cường, tính chất bản địa ngày càng khẳng định.
- Phong cách Đồng Dương – nửa cuối thế kỷ IX – đầu TK X: Phần lớn hiện vật thuộc phong cách này tìm thấy ở Đồng Dương (Thăng Bình, Quảng Nam) và ở khu Mỹ Sơn, trong đó có tấm bia tìm thấy tại Đồng Dương có niên đại năm 875 nói về việc xây dựng một Phật điện lớn. Phong cách này đạt đến đỉnh cao của những yếu tố bản địa, nhất là trong việc bộc lộ nội tâm con người.
- Phong cách Khương Mỹ – thế kỷ X. Phong cách này kế thừa phong cách bản địa trước đó và có thêm ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer. Các tác phẩm diễn tả chân thực, mộc mạc, mang vẻ đẹp hiện thực.
- Phong cách Trà Kiệu muộn – cuối thế kỷ X. Phong cách này thể hiện sự hiền hòa, duyên dáng, tiêu biểu là các vũ nữ Trà Kiệu trên các bệ thờ tại đây. Đây là giai đoạn đạt đỉnh cao của nghệ thuật Chămpa cùng với giai đoạn Đồng Dương, nhưng phong cách Trà Kiệu muộn còn có sự tiếp thu yếu tố của nghệ thuật Java và Khmer.
- Phong cách Chánh Lộ – thế kỷ XI. Đây là khu phế tích kiến trúc, các hiện vật tìm thấy ở đây mang những đặc điểm bảo lưu và kế thừa của phong cách Trà Kiệu muộn. Trong giai đoạn này có các nhóm tháp Chiên Đàn (Quảng Nam), Pô Nagar (Nha Trang), Bánh Ít, Tháp Bạc, Bình Lâm (Bình Định),Tháp Nhạn (Phú Yên), một số tháp trong khu Mỹ Sơn.
- Phong cách Tháp Mẫm – thế kỷ XII đến XIII. Chủ yếu thể hiện trên các nhóm tháp và tác phẩm tìm thấy từ Quảng Ngãi đến Bình Định. Nổi bật là tính hoành tráng và những đặc trưng thống nhất dễ nhận biết bở các tác phẩm. Tấm bia ở nhóm G khu Mỹ Sơn có niên đại năm 1157 xác định niên đại cho phong cách này. Ngoài ra có thể nhận thấy ảnh hưởng của nghệ thuật Bayon, Angkor Vat, và nghệ thuật Đại Việt thời Lý trong phong cách này.
- Phong cách Pô Kloong Garai – cuối thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XVI. Đây là phong cách cuối cùng của nghệ thuật Chămpa, thể hiện ở vùng Ninh Thuận – Bình Thuận và Tây Nguyên. Sau giai đoạn này nghệ thuật Chămpa dần dần mai một. Có thể tham khảo thêm cách một phân chia phong cách nghệ thuật Chămpa trong một công trình nghiên cứu gần đây:
- Phong cách Mỹ Sơn E1: phong cách cổ, thế kỷ VIII.
- Phong cách Hòa Lai: cuối thế kỷ VIII – giữa thế kỷ IX.
- Phong cách Đồng Dương: Giữa thế kỷ IX – đầu thế kỷ X.
- Phong cách Mỹ Sơn A1: Thế kỷ X
- Phong cách Chiên Đàn: Thế kỷ XI – XII.
- Phong cách Bình Định: Thế kỷ XII, XIII, XIV.
- Phong cách Pô Kloong Garai: Thế kỷ XIV – XVI
Những năm gần đây loại hình di tích thành cổ Chămpa đã được phát hiện và khai quật ở nhiều tỉnh miền Trung nước ta. Người Chăm đã xây đắp nhiều tòa thành cổ có chức năng quân sự và làm trung tâm chính trị của từng tiểu vương quốc cũng như của cả vương quốc Chămpa. Các tòa thành cổ được ghi chép trong sử liệu cũng như được phát hiện trên thực địa đều có một số đặc điểm chung:
- Thành thường được xây dựng ở vị trí trọng yếu của các đồng bằng lớn ven biển miền trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… ven các con sông lớn Thu Bồn, Trà Khúc, Sông Côn, Đà Rằng…
- Quy mô các thành khá lớn, quy chỉnh hình vuông hay chữ nhật, có hệ thống hào nước bao quanh tạo thành căn cứ vững chắc.
- Kỹ thuật xây thành tương đối giống nhau, đắp đất và xây gạch bên ngoài.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử những tòa thành ấy đã mất dần vai trò quan trọng của chúng. Do chiến tranh hay thiên nhiên phá hủy rồi dần bị lãng quên, hay được thời sau sử dụng lại nên ở nhiều di tích thành cổ yếu tố văn hóa Chămpa không còn nhiều mà thường bị phủ một lớp văn hóa muộn hơn.
2.2. Di sản phi vật thể
Khánh Hòa
Lễ hội Tháp Bà Ponagar Nha Trang là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia















Trong sử sách cũng như tiềm thức của người Chăm, vai trò của nữ thần Po Inư Nagar đặc biệt quan trọng và đó là biểu tượng người phụ nữ duy nhất được tôn thờ độc lập. Mọi người tin Po Inư Nagar là vị thần đầy quyền năng, sáng tạo…Mẹ xứ sở không chỉ nâng đỡ người Chăm từ những bước đi đầu tiên thời lập quốc mà luôn luôn dẫn dắt đời sống tinh thần của từng gia đình cũng như cả cộng đồng. Tôn thờ mẫu hệ, mỗi làng Chăm đều có nơi thờ cúng Mẹ xứ sở, nhưng tháp Bà Ponagar ở Nha Trang là công trình kiến trúc tôn giáo lớn nhất do người Chăm xây dựng từ thế kỷ thứ IX đến XIII chỉ để thờ cúng nữ thần Po Inưgar.





Gia đình các người Chăm đang bày lễ tại Tháp Bà
                Các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa nhận định, khoảng từ giữa thế kỷ XVII đến nay, nghi lễ thờ cúng Mẹ xứ sở được người Chăm và người Kinh tổ chức chu đáo tại Tháp Bà Ponagar. Năm 1653, những người dân Việt từ phía Bắc, theo chúa Nguyễn vào phương Nam mở cõi, dừng chân bên cửa sông Cái (Nha Trang), tạo lập nên làng mạc, xóm thôn… Và, chính họ đã mang theo phong tục thờ cúng Mẫu của người Kinh ở đồng bằng Bắc bộ vào đây. Hàng năm, cứ đến ngày 20-3 âm lịch, người Chăm, người Kinh ở khắp nơi, mang theo lễ vật, hành hương về Tháp Bà Ponaga Nha Trang, thành tâm bày tỏ lòng biết ơn đối với một người phụ nữ đã có công chỉ dạy dân lành biết cách làm ăn, sinh sống bằng nghề nông.

Các nghi lễ chính của lễ hội Tháp Bà Ponagar gồm lễ mục dục (tắm tượng), lễ tế gia quan (lễ thay y) diễn ra vào giờ Ngọ ngày 20.3 âm lịch, tiếp đến là lễ tế sanh, dâng cúng đồ tế, múa bóng mời thiên y thánh mẫu và các bậc thần linh về dự lễ. Theo nghi thức, lễ cúng thánh mẫu thường mở đầu bằng lễ khai kinh cầu quốc thái dân an. Lễ tế sanh bắt đầu vào giờ Tý, đêm 22 âm lịch do các bô lão thực hiện, sau đó lễ cầu cúng chính thức diễn ra vào lúc 4 giờ sáng ngày hôm sau. Việc hành lễ do chánh lễ, bồi tế, đông hiến, tây hiến và đội học trò thực hiện, lần lượt dâng rượu, dâng trà, đọc văn tế rất cung kính, tôn nghiêm. Sau cùng, từng đoàn người Chăm, người Kinh… đại diện cho các palei, thôn xóm… múa bóng, múa hoa quả, múa quạt… ca ngợi công đức, bày tỏ lòng biết ơn “Bà mẹ xứ sở”.



Năm nay, lễ hội diễn ra với nhiều nghi thức như: lễ mộc dục (thay xiêm ý cho tượng), lễ cầu siêu và thả hoa đăng, lễ cầu “Quốc thái, dân an”, lễ tế cổ truyền, dâng hương lễ Mẫu, lễ hoàn kinh, cúng ngọ… Bên cạnh đó, lễ hội còn có nhiều hoạt động mang đậm nét văn hóa truyền thống như: múa bóng, hát văn, diễn tuồng, trình diễn nghệ thuật gốm và dệt thổ cẩm của người Chăm...
Theo dự kiến của ban tổ chức, năm nay lễ hội Tháp Bà Ponagar thu hút khoảng hơn 60.000 lượt khách hành hương. Trong lễ khai mạc, Ban tổ chức đã làm lễ đón nhận bằng chứng nhận Lễ hội Tháp Bà Ponagar là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận cuối năm 2012. Đây là lễ hội văn hóa người Chăm lớn nhất khu vực Nam Trung Bộ .
Ninh Thuận
Hiện Ninh Thuận có 233 di tích được thống kê, phân loại gồm 46 đình, 11 đền, 85 chùa và 91 di tích khác, trong đó có 27 di tích được xếp hạng cấp tỉnh và 14 di tích được xếp hạng cấp quốc gia.
Bên cạnh đó, Ninh Thuận là một trong những địa bàn sinh sống của người Việt cổ. Các nhà khảo cổ đã phát hiện được ở Nhơn Hải của Ninh Thuận các mộ cổ chôn cùng với đồ đá, đồ sắt thuộc nền văn minh Sa Huỳnh cách đây khoảng 2500 năm. Do vậy nơi đây còn là nơi gìn giữ được nhiều di sản quý báu của nền văn hoá Chămpa, bao gồm chữ viết, dân ca và nghệ thuật múa, trang phục và nghề dệt thổ cẩm, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc.
Ninh Thuận có gần như còn nguyên vẹn hệ thống tháp Chăm xây dựng trong nhiều thế kỷ trước, tiêu biểu là cụm tháp Hòa Lai (Ba Tháp) xây dựng thế kỷ thứ 9, cụm tháp Po Klong Garai xây dựng thế kỷ 13 và cụm tháp Po Rome xây dựng thế kỷ 17.

Ngoài các giá trị vật thể, văn hóa phi vật thể của người Chăm ở Ninh Thuận cũng phong phú với hơn 100 lễ hội diễn ra quanh năm, trong đó tiêu biểu phải kể đến là lễ hội Ka-tê tổ chức ở tháp Chăm vào tháng 7 lịch Chăm hàng năm. Đây là lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hoá của người Chăm, phản ánh sinh hoạt của cộng đồng người địa phương.
Nghệ thuật biểu diễn
Ninh Thuận nổi tiếng với những điệu múa Chăm. Múa thường gắn liền với các lễ hội như Rija Nưgar, Katê, Rija Praung… ở mỗi làng palei hay trên tháp. Đó là những dịp người Chăm thể hiện sự tưởng nhớ của mình đối với những người có công xây dựng đất nước, hay sự sùng bái một hoặc một vài vị vua được thần hóa.
Đi kèm với múa là những nhạc cụ truyền thống như: trống Ginăng, trống Bara nưng, chiêng, kèn Xaranai, Grong (lục lạc), đàn Kanhi… nhưng phổ biến hơn cả vẫn là bộ ba Ginăng, Baranưng và Xaranai, trong đó chủ đạo vẫn là Ginăng, vì có âm thanh mạnh mẽ, hùng  hồn rất phù hợp trong dịp lễ hội cũng như phản ánh được tính cách của người Chăm. Có thể phân chia múa Chăm thành 2 loại: Múa dân gian và múa cung đình .

                         Múa Chăm tại lễ Katê
               
Bình Thuận
Nghề làm gốm của người Chăm ở tỉnh Bình Thuận


Hiện nay, tại tỉnh Bình Thuận có 26 thôn của người Chăm, nhưng chỉ có người Chăm ở thôn Bình Đức, xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình còn làm gốm với kỹ thuật và quy trình thủ công truyền thống của cha ông họ. Theo các nghệ nhân cho biết, nghề gốm ở thôn Bình Đức có từ rất lâu, được các gia đình người Chăm nơi đây duy trì qua nhiều đời.
Quy trình làm gốm truyền thống của người Chăm thôn Bình Đức, xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình bao gồm nhiều khâu công việc, nhiều công đoạn kết nối với nhau.
Đầu tiên là việc chọn đất và lấy đất. Theo kinh nghiệm dân gian của các nghệ nhân cao tuổi, loại đất sét được sử dụng làm gốm phải có màu vàng nhạt, có độ dẻo và độ mịn vừa phải, không bị lẫn nhiều hạt sạn, sỏi nhỏ. Trước năm 1954, người Chăm Bình Đức khai thác đất làm gốm tại làng Ninh Hà (nay là xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình), cách thôn Bình Đức khoảng 4 km về hướng Đông Bắc. Từ năm 1958 đến nay, người ta chuyển sang khai thác mỏ đất tại làng Xuân Quang, cách làng gốm Bình Đức khoảng 3 km về hướng Tây Bắc. Thời điểm lấy đất thường diễn ra vào mùa nông nhàn, trong mùa khô, khoảng tháng Một đến tháng Hai Âm lịch hàng năm. Công cụ dùng để đào bới và lấy đất gồm có: cuốc, xẻng, cúp (cuốc chim), xà beng và thúng. Trước đây, phương tiện chở đất bằng xe trâu (thă’ kupaw), ngày nay bằng xe cơ giới.
Có đất, người làm gốm phải đập, ủ, pha trộn và nhồi bóp đất. Việc xử lý đất trước khi làm gốm quyết định đến chất lượng và hiệu suất sản phẩm sau khi nung. Để có đất thành phẩm nhào nặn các sản phẩm gốm vào sáng ngày hôm sau, ngày hôm trước đất được đập và pha trộn, tùy theo nhu cầu sử dụng nhiều hay ít mà người thợ lấy một lượng đất vừa đủ, ít khi để dư lại qua ngày hôm sau.
Thợ làm gốm là những phụ nữ Chăm, họ tạo hình sản phẩm gốm không dùng bàn xoay, chỉ sử dụng những công cụ giản đơn theo phương pháp thủ công truyền thống. Dụng cụ tạo hình sản phẩm gốm khá đơn giản: một chiếc bàn kê (kathun hay lithung giơ yơng) và một miếng vải thô nhỏ. Đối với sản phẩm gốm có kích thước lớn và cồng kềnh, phải thao tác trên mặt sân bằng phẳng và phải do những nghệ nhân lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm mới thực hiện được. Người thợ lấy một ít cát trắng rải đều lên mặt bàn kê rồi đặt đất sét lên để chống dính. Bằng thao tác hơi khum người xuống, hai chân dịch chuyển quanh bàn kê, người thợ dùng đôi bàn tay tạo dáng và thân sản phẩm. Tùy từng loại hình và kích cỡ sản phẩm mà người thợ lấy thêm những lọn đất để nối vuốt cho phần thân sản phẩm cao dần lên, tay trái áp bên trong, tay phải vuốt mặt bên ngoài sản phẩm, người thợ dịch chuyển quanh bàn kê ngược chiều kim đồng hồ khoảng 5 vòng, sau đó dịch chuyển theo chiều ngược lại, là có thể tạo ra một dáng gốm cơ bản. Số vòng dịch chuyển tùy thuộc vào loại hình sản phẩm. Tiếp theo, người thợ dùng một chiếc vòng tre vót mỏng vuốt lên mặt ngoài sản phẩm ướt để tạo độ đều và láng mịn, rồi dùng một miếng vải thô nhúng nước và dịch chuyển một vòng làm thao tác bẻ, vuốt miệng gốm cho đều, mịn. Mặt trong và ngoài miệng sản phẩm được vuốt nước thổ hoàng bằng miếng vải. Khi xương gốm ráo, người thợ tiếp tục nông thân và đáy (sửa cho đáy sản phẩm tròn, có độ dày đều), chà, nạo và làm bóng mặt trong và ngoài sản phẩm.
Sản phẩm gốm ướt được để khô tự nhiên ở nơi có bóng mát, ngoại trừ sản phẩm là các loại hỏa lò có thể phơi hoặc để ở nơi có nắng và gió to. Độ ráo của sản phẩm có ảnh hưởng quan trọng đến khâu chỉnh hình sau. Công cụ chỉnh hình và làm bóng sản phẩm rất đơn giản, như: vòng sắt (nuh pathei), vòng tre (núh), vòng (khóh) làm bằng cây dúi, bàn vỗ (khài poh) làm bằng gỗ, vòng sắt dày (nuh pathei pan), vỏ nghêu (dúh krang), và viên đá mài (taw). Mỗi công cụ đều có công năng riêng và sử dụng tùy vào kích cỡ, độ dày, mỏng của xương gốm. Với sản phẩm cỡ lớn và dày, người thợ dùng chiếc vòng sắt (nuh pathei) rộng vừa đủ cầm trong lòng bàn tay để nạo mặt trong thân và đáy sản phẩm, đồng thời nông sản phẩm từ đáy bằng thành đáy tròn. Sản phẩm cỡ nhỏ và mỏng, người thợ dùng vòng tre (nuh) có kích cỡ như vòng sắt để nông đáy và nạo bớt những chỗ dày mặt trong thân và đáy sản phẩm. Tiếp đó, người thợ dùng chiếc vòng (khoh) làm bằng cây dúi để chà láng mặt trong thân và đáy, đồng thời, dùng bàn vỗ (khai poh) vỗ đều tay vào mặt trong thân và đáy để tạo sự tròn đều, cân đối. Sau đó, người thợ chà bóng và làm mịn mặt ngoài của sản phẩm bằng chiếc vòng sắt (nuh pathei pan). Để kiểm tra độ đều và cân đối của sản phẩm, người thợ dùng vỏ nghêu để nạo mặt trong thân và đáy một lần nữa và xoa nước thổ hoàng lên toàn bộ mặt ngoài và mặt trong thân gốm tạo màu đỏ hồng và tươi tắn sau khi nung. Sản phẩm để trong bóng mát, dùng tấm nilon phủ kín để sản phẩm không bị khô. Trước khi nung, người thợ dùng viên đá mài chà lên thân sản phẩm để làm nhẵn lớp nước thổ hoàng bên trên thân gốm.
Gốm của người Chăm được nung lộ thiên. Thông thường, một lần nung tối thiểu phải có từ vài trăm sản phẩm trở lên và tối đa là từ 1500 đến 2000 sản phẩm. Việc nung gốm diễn ra quanh năm và nhiều nhà cùng nung chung một lần. Thời gian để nung chín toàn bộ sản phẩm gốm nhanh hay chậm tùy thuộc vào số lượng gốm nhiều hay ít. Nếu số lượng gốm từ 1500 - 2000 sản phẩm thì thời gian nung chín khoảng 2 giờ, số lượng gốm càng ít thì thời gian nung càng nhanh. Người thợ phải xác định hướng gió để có cách sắp xếp gốm, củi và một cách hợp lý. Hướng đốt luôn theo nguyên tắc ngược chính diện với chiều gió. Gốm và củi sắp xếp thành hàng ngang vuông góc với hướng gió thổi để gốm chín đều và tỉ lệ nổ, vỡ thấp. Gốm được xếp theo thứ tự từ nhỏ đến lớn, từ dày đến mỏng. Nhiên liệu chính sử dụng để nung gốm từ trước tới nay là củi và rơm, củi làm chất đốt chính, rơm thấm nước để phủ kín lớp gốm trên cùng nhằm giữ nhiệt không cho hơi nóng thoát ra ngoài để gốm chín đều và nhanh hơn. Địa điểm nung gốm phải gần nguồn nước để tưới ướt rơm phủ trên sản phẩm gốm nhằm giữ nhiệt khi nung; làm giảm nhiệt cơ thể những người tham gia nung gốm, đặc biệt là những người trực tiếp đứng đốt và đưa sản phẩm gốm đã nung chín ra ngoài; làm nguội cây móc sản phẩm, dập tắt than củi đề phòng lửa cháy lây lan. Khi gốm chín được đưa ra ngoài, dùng loại nước làm từ trái thị rừng hoặc vỏ cây chùm dụ rảy lên mặt thân gốm để tạo hoa văn. Vì vậy, gốm Chăm Bình Đức có màu đỏ hồng tươi tắn, được điểm xuyết thêm những vệt nâu đen trông như da báo trên thân gốm.
Sản phẩm gốm khá đa dạng và phong phú, có thể chia làm hai nhóm: đồ đun nấu: trã (glah), nồi (gok glah), ấm (gok om), khương (glah đôi), dụ (buk), gàn (gin nhjih), hỏa lò (hawalo), khuôn lò bánh xèo (khung pey xèo), khuôn lò bánh căn (khung pey kăn)…; đồ đựng: lu đựng gạo (khơng brah), chum lớn (buk praung), chum nhỏ (buk ssit), chậu (khan), ống nhổ của các chức sắc (ta chôrh lănk)…
Sản phẩm gốm của người Chăm Bình Đức giá thành rẻ, gồm nhiều kích cỡ và chủng loại khác nhau, tiện lợi trong sử dụng, được cộng đồng người Chăm, người Việt, người Hoa, người Raglai, người Cờ ho… trên địa bàn ưa chuộng. Sản phẩm còn được tiêu thụ ở các tỉnh lân cận như Ninh Thuận, Khánh Hòa, Đồng Nai, Lâm Đồng, Tp. Hồ Chí Minh…
Nghề làm gốm của người Chăm ở Bình Đức còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa truyền thống, được thể hiện qua kỹ thuật chế tác gốm, không dùng bàn xoay, nung lộ thiên, sản phẩm độc đáo mang nhiều dấu ấn lịch sử văn hóa tộc người. Đây là nghề thủ công truyền thống độc đáo, riêng biệt, phản ánh sự đa dạng văn hóa và sự sáng tạo mang tính đại diện, thể hiện bản sắc văn hóa của cộng đồng người Chăm. Vì vậy, năm 2012, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa Nghề làm gốm của người Chăm tỉnh Bình Thuận vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Nghề thủ công truyền thống .






CHƯƠNG  2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHĂM TẠI VIỆT NAM

Ở Việt Nam, có khoảng 60.000 người Chăm theo adat Cham (Bà Chăm, Ahiér, Triều Nguyễn gọi là Chiêm Tục). Mặc dù cả hai adat - adat Cham và adat Bini đều là adat của tín độ Hồi giáo nhưng sự nhầm lẫn của người Pháp cho rẳng adat Cham là đạo Bà La Môn (Ấn giáo) đã dẫn đến quan niêm sai lầm khó sửa lại, là họ tự cho rằng mình là tín độ Ấn giáo! Tất nhiên, ngày nay họ không có một hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt, dù trước đó họ có thể đã được chia thành đẳng cấp Nagavamshi Kshatriya  cùng với 1 thiểu số đẳng cấp Brahmin có vai vế. Các đền thờ vua đươc coi là các vị thần Ấn giáo hóa thân xưa được gọi là Bimong trong tiếng Chăm. Các thầy tế lễ được chia thành 3 cấp, cấp bậc cao nhất được gọi là Po Adhia hay Po (đọc a-sá), tiếp theo là Po Tapáh và thấp nhất là Po Paséh.
Người Chăm ở Việt Nam về mặt tín ngưỡng có 3 nhóm chính: Chăm ở Ninh Thuận-Bình Thuận theo adat Cham; Bini (phe Shiia) ở Ninh Thuận-Bình Thuận theo adat Bini, là 1 dạng Hồi giáo theo phe Shiia; và Sunni (văn bản Đảng CSVN ghi là Ýslam) ở An Giang và Nam Bộ theo Hồi giáo các phe Sunni, đặc biệt là phái Shafi'i, họ có mối liên hệ gắn bó với thế giới các phe Sunni bên ngoài, chủ yếu thông qua Hồi giáo ở Đông Nam Á như Malaysia. Ngoài ra, cộng đồng Chăm H'roi ở miền núi theo tín ngưỡng dân gian cũng có thể xếp vào nhóm thứ nhất. Tại tỉnh Ninh Thuận, nơi có nhiều người Chăm ở Việt Nam cư trú, có khoảng 44.000 người Chăm và gần 31.000 người Bini. Trong số 34 làng Chăm ở Ninh Thuận, có 23 làng Chăm và 11 làng Bini. Tại tỉnh Bình Thuận, nơi có 4 làng toàn Chăm và 9 làng hỗn hợp thì có gần 25.000 người Chăm và khoảng 10.000 người Bini
2.1. Về kinh tế
Chăm là một dân tộc có nhiều ngành nghề truyền thống lâu đời như thêu, dệt, làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ sản xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu khắc... đặc biệt là nghề trồng lúa nước được người Chăm phát triển từ rất sớm và luôn có những cải tiến về giống và thủy lợi.
Người Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Trước kia, người Chăm không trồng cây trong làng vì cho rằng cây sẽ là nơi cư trú của ma quỉ.
2.2. Về văn hóa – xã hội
Tổ chức cộng đồng
Người Chăm thường sinh sống tập trung trong palei Cam (làng Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, cùng theo một tôn giáo nhất định, gồm nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Mỗi paley đều có một đơn vị hành chính của làng là: Hội đồng phong tục và Po Paley (Trưởng làng), trong đaó, Po Palei là người đóng vai trò rất quan trọng trong Palei. Luật tục Chăm ghi:
“              Ếch có nắp đậy hang;
    Làng có chủ cai quản.  ”
Po Paley được dân làng bầu, phải là người cao tuổi, có uy tín, am hiểu phong tục tập quán, luôn vì mọi người, có lòng vị tha. Đồng thời Po Paley cũng phải là người lao động giỏi, có kinh nghiệm trong sản xuất, gia đình hạnh phúc, con cháu xum họp đoàn kết. Người Chăm ví Po Paley như là cây cao, bóng cả:
“              Cây to lan tỏa một lòng,
 Xòe ra che mát cho người dừng chân.    ”
Hội đồng phong tục do dân làng bầu chọn và có nhiệm vụ trông coi về vấn đề phong tục tập quán, tín ngưỡng. Thành viên của Hội đồng phong tục đều là những người có uy tín trong tôn giáo, trong các tộc họ, là người am hiểu tập quán, phong tục lễ nghi, tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, có quyền phân xử những thành viên trong paley vi phạm Luật tục. Trong trường hợp người vi phạm ngoan cố thì khi cha, mẹ hoặc người thân chết, Hội đồng phong tục sẽ cấm các tu sỹ, chức sắc không được cúng lễ và xem như người vi phạm đã bị loại ra khỏi cộng đồng.
Người Chăm có tập quán bố trí cư trú dân cư theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đường nhỏ. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.
Mỗi một dòng họ có một chiết Atâu, một Akauk Guăp và một vật tổ riêng. Luật tục Chăm quy định, Akauk Guăp phải là người cao tuổi, am hiểu phong tục tập quán, có uy tín trong dòng họ, gia đình giàu có, không được có chồng chắp vợ nối.
Hôn nhân gia đình
Chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn tại ở người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và gia phả. Phong tục Chăm qui định con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần (họ nội). Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó mang hài cốt về trả lại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Nhà cửa
Nhà ở của người Chăm là một quần thể nhà trong một khuôn viên (bây giờ do việc quy hoạch phân lô đất theo kiểu nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể trong một khuôn viên dần không còn nữa). Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình tan vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ.
Bộ khung nhà của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột (kèo được liên kết với cột hoặc không có vì kèo thì dùng tường thay thế kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo.
Mặt trước nhà quay về hướng Nam hoặc hướng Tây. Gian giữ là trung tâm (người Chăm gọi là sang-yơ), phía phải là phòng ngủ của bố mẹ, bên trái là kho, sau là phòng ngủ của con cái. Mặt trước có một hiên ở giữa nhà.
Nhà bếp được xây dựng riêng biệt với nhà chính và ở phía Tây nhà chính, trong nhà bếp có khu bếp, khu chứa nước uống và kho chất đốt (củi, than, v.v.).
Nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác.
Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà sang yơ ở Bình Thuận.
Nhà người Chăm ở Châu Đốc: khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ. Chuồng trâu bò và lợn được làm xa nhà ở.
Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang.
Trang phục
Có những nhóm địa phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
Trang phục nam
Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tôn giáo), hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần soọc, ngoài quấn váy xếp.
Trang phục nữ
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc.
Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, phụ nữ mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy.
Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm.
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.










CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CHĂM
3.1. Một số kiến nghị
Hiện nay vấn đề công tác quản lý đối với các hình thức tín ngưỡng dân gian ở nước ta đặc biệt đối với vùng dân tộc thiểu số chưa được tốt và còn nhiều bất cập. Vấn đề mê tín dị đoan cũng như yếu tố tâm linh bị chà đạp như mua bán thánh thần vẫn còn diễn ra. Do đó cần có những giải pháp đển đưa công tác quản lý Nhà nước đối với các hình thức tín ngưỡng dân gian được tốt hơn góp phần làm phong phú văn hóa dân gian và thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo của Đảng : “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc”. Trong vấn đề văn hóa của người Chăm ở cũng vậy, cần thực hiện hiệu quả hơn nữa công tác quản lý đối với nó.
Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc Chăm. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tạo điều kiện để các dân tộc phát triển đồng đều và vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.
Vì vậy giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của từng dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có dân tộc Chăm đóng vai trò quan trọng trong việc nhận thức toàn diện và sâu sắc về phương hướng, đặc trưng, nhiệm vụ và giải pháp để xây dựng, bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để chúng ta kế thừa những quan điểm và thành tựu lý luận của Đảng nhằm xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
3.2. Một số giải pháp
Sau một thời gian nghiên cứu khảo sát thực trạng của hình thức tín ngưỡng này trong đời sống văn hóa của người Chăm, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa Chăm.
Thứ nhất: trong điều kiện hiện nay với việc du nhập những giá trị văn hóa mới từu bên ngoài vào và tín ngưỡng phồn thực của người Chăm đang dần dần mất đi. Vì vậy việc đầu tiên cán bộ ngành Văn hóa Thông tin, những người làm công tác văn hóa phải có trách nhiệm bảo tồn và khôi phục. Để thực hiện điều đó trước hết cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa những giá trị văn hóa bên trong tín ngưỡng phồn thực và đánh giá, nhận xét một cách khách quan về vai trò, vị trí của nó trong đời sống van hóa xã hội của ngừoi Chăm. Đặc biệt cần xem đây như một bộ phận nằm trong di sản văn hóa phi vật thể Chăm. Sau đó tiến hành khôi phục lại những di tích, những phong tục, những lễ hội gắn liền với tín ngưỡng phồn thực. Đồng thời nghiên cứu ý nghĩa của những biểu hiện, những biểu tượng của nó. Đây là một việc làm hết sức cần thiết vì tín ngưỡng phồn thực nói riêng và các tín ngưỡng tín ngưỡng khác đều ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của người Chăm.
Thứ hai: những nhà quản lý văn hóa ở địa phương có những người Chăm cư trú cần có những văn bản qui định phù hợp để quản lý tốt vấn đề phồn thực. Cụ thể cần phân biệt được đâu những yếu tố mê tín dị đoan, đâu là yếu tố tín ngưỡng trong các nghi lễ thể hiện trong các lễ hội để từ đó loại bỏ những yếu tố mê tín, một số đặc điểm không còn phù hợp với tín ngưỡng. Hơn nữa cần dựa vào Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo, các chỉ thị, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người Chăm, khuyến khích họ thực hành tín ngưỡng theo qui định của Nhà nước.
Thứ ba: cần thực hiện tốt công tác tổ chức xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đặc biệt công tác tín ngưỡng. Đây là vấn đề có liên quan chặt chẽ đến vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vì tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng phồn thực nói riêng đều được thể hiện trên khắp các mặt của đời sống văn hóa của người Chăm. Vì vậy nếu thực hiện tốt công tác tín ngưỡng thì xây dựng đời sống văn hóa cơ sở sẽ tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Đồng thời cần tiến hành phục dựng lại những biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực dưới dạng sân khấu hóa những vẫn giữ được niềm tin và tính thiêng liêng của góp phần vào việc giữ gìn hình thức tín ngưỡng này.
Thứ tư: phát triển loại hình du lịch mới-du lịch văn hóa tín ngưỡng. Vì tín ngưỡng phồn thực có rất nhiều giá trị văn hóa nên cần gắn việc bảo tồn phát huy với việc phát triển du lịch. Đây là một việc làm hết sức cần thiết vừa thu lại lợi nhuận vừa góp phần quảng bá, giới thiệu văn hóa Chăm với du khách. Đối với vấn đề tín ngưỡng phồn thực của người Chăm cần gắn với việc phát triển du lịch. Trong qúa trình nghiên cứu khảo sát chúng tôi thấy trong các loại hình du lịch thì du lịch văn hóa tín ngưỡng là phù hợp nhất. Chúng tôi chọn loại hình du lịch này tại vì trong điều kiện hiện nay khi đời sống vật chất ngày càng lên cao con người tìm đến các phương tiện giải trí, hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần đặc biệt là niềm tin tín ngưỡng tôn giáo. Bên cạnh các loại hình du lịch khác như du lịch sinh thái, du lịch tự nhiên và du lịch nhân văn thì du lịch văn hóa tín ngưỡng là một trong những loại hình du lịch mới đang phát triển và thu hút khá nhiều du khách. Để phát triển du lịch văn hóa tín ngưỡng trước hết cần có những cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như các dịch vụ du lịch tạo điều kiện thuận lợi cho du khách yên tâm trong quá trình đi tham quan, tìm hiểu tín ngưỡng nói riêng và văn hóa Chăm nói chung. Đồng thời cần phối hợp với những công ty du lịch lớn để thiết kế những tour du lịch đến với vùng người Chăm, đặc biệt vào thời gian diễn ra các lễ hội, nghi lễ gắn với tín ngưỡng. một vấn đề vô cùng quan trọng phải có đội ngũ hướng dẫn viên du lịch giỏi đặc biệt có kỹ năng hướng dẫn tại chỗ tốt vừa có chuyên môn nghiệp vụ vừa có kiến thức, hiểu biết sâu về tín ngưỡng phồn thực và văn hóa Chăm với du khách một cách tốt hơn.


KẾT LUẬN
Mỗi dân tộc có những lối sống riêng biệt, đặc trưng của dân tộc mình. Chính vì vậy, việc tìm hiểu chuyên xâu vào văn hóa của một dân tộc là một việc khá phức tạp, đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian và công sức. Qua phác thảo dưới đây về nếp sống của người Chăm đã phần nào giới thiệu được khái quát về những nét đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc.
Mặt khác, qua những nét đặc trưng của bản sắc văn hóa dân tộc Chăm đã bàn đến việc bảo tồn văn hóa dân tộc là một việc làm có tầm mức quan trọng hàng đầu mà bất cứ dân tộc nào, quốc gia nào cũng phải đặc biệt quan tâm. Trước sự giao lưu ngày càng mở rộng về mọi mặt với các nước trên thế giới và trước sự mở cửa để hòa nhập với nền kinh tế thị trường quốc tế, nếu Việt Nam nói chung và các dân tộc thiểu số nói riêng, không bảo tồn được bản sắc văn hóa của dân tộc mình thì sẽ đi đến ”hòa trộn” và “hòa tan”, nghĩa là “người Việt Nam chỉ còn thể xác là Việt Nam, nhưng tâm hồn không phải là của chính mình”, như nhà dân tộc học Đặng Nghiêm Vạn đã nhận định và cũng như nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói: “Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc, một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả”.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Quốc Vượng (1998), Miền Trung Việt Nam và văn hóa Chămpa (một cái nhìn địa văn hóa). Việt Nam cái nhìn địa văn hóa. NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
2. Hà Văn Tấn (chủ biên 2002), Khảo cổ học Việt Nam, tập 3, NXB Khoa học xã hội.
3. Nguyễn Hồng Kiên (2000), Đền tháp Chămpa, Trùng tu di tích, số 7, Trung tâm Tu bổ di tích – Bộ VHTT.
4. Trần Kỳ Phương – Shigeeda Yutaka (2002), Phế tích Chămpa, khảo luận về kiến trúc đền tháp, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên – Huế, số 2.
5. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam,  NXB. Giáo dục.
6. Lương Ninh (2004),  Lịch sử vương quốc Champa, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét