TIỂU LUẬN TÌM HIỂU CHẾ ĐỊNH LUẬT DÂN SỰ THỪA KẾ
I. ĐÁNH GIÁ SỰ TÁC ĐỘNG TÍCH
CỰC CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC THUỘC THẨM QUYỀN CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN
Bộ luật dân sự 2005 (được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006) ra
đời trong bối cảnh đất nước đổi mới được gần 20 năm, thay thế cho Bộ luật dân
sự 1995 đã bị lạc hậu so với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế
và các giao lưu trong đời sống xã hội sau khi công cuộc đổi mới được phát
động năm 1986 đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ đòi hỏi phải có một Bộ luật dân sự
mói đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 có
vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Nó thể hiện
những quan điểm cơ bản nhất của nhà nước trong điều chỉnh các quan hệ pháp
luật tư, thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất cho các mối quan hệ trong
đời sống dân sự, đồng thời xác lập các quy tắc điều chỉnh cho quan hệ dân sự
phát sinh (thậm chí cả những trường hợp được dự liệu có thể phát sinh). Các
đạo luật điều chỉnh các khía cạnh khác nhau của quan hệ pháp luật tư (như
thương mại, đất đai, tín dụng, sở hữu trí tuệ….) cũng đều phải căn cứ vào các
nguyên tắc chung của BLDS.
Nhìn chung, qua 07 năm thi
hành, BLDS 2005 đã có tác động rất tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước nói chung và trong hoạt động của ngành Tòa án nói riêng. Bộ
luật dân sự đã cụ thể hóa, chi tiết đại đa số các quan hệ xã hội trên cơ sở
của nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm
giữa các chủ thể, hạn chế tối đa sự can thiệp hành chính của nhà nước vào
quan hệ dân sự, tôn trọng và phát huy sự tự thỏa thuận, tự quyết định của các
chủ thể, phát huy vai trò to lớn trong việc tạo lập hành lang pháp lý điều chỉnh
các quan hệ dân sự, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích nhà nước và lợi ích
công cộng.
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự
2005 ra đời trong thời điểm nước ta cần hoàn tất các bước cần thiết cho việc
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, trong đó có việc rà soát và điều
chỉnh pháp luật cho phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ tổ
chức này. Và cũng vì được ban hành khá nhanh chóng và trong bối cảnh như vậy
nên đây cũng là nguyên nhân khiến Bộ luật dân sự 2005 được ban hành nhưng
chưa dựa trên những nghiên cứu đầy đủ và còn rất nhiều vấn đề cần phải được
bàn thảo, từ kỹ thuật lập pháp đến nội dung các quy định cụ thể.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
1. Đánh giá những bất cập,
hạn chế trong quy định của Bộ luật dân sự 2005
1.1. Phần thứ nhất: Những quy
định chung của BLDS 2005
* Về Người giám hộ
đương nhiên của người chưa thành niên:
Khoản 1 - Điều 61 BLDS 2005
quy định: “Trong trường hợp anh ruột, chị ruột không có thoả thuận khác
thì anh cả hoặc chị cả là người giám hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả
hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh, chị tiếp theo là
người giám hộ”. Quy định này có vẻ phù hợp với tư duy, tâm lý của người
Việt Nam là theo thứ bậc trong gia đình. Tuy nhiên trong thực tế, không hiếm
trường hợp người em chưa thành niên đang sống và được người anh, chị thứ chăm
sóc, nuôi dưỡng, còn người anh, chị cả bỏ mặc người em hoặc vì nhiều lý do
khác không thể chăm sóc em chưa thành niên. Bản chất của việc giám hộ là chăm
sóc, bảo vệ quyền lợi của người được giám hộ. Như vậy vấn đề đặt ra là ai
đang quan tâm chăm sóc cho người em chưa thành niên chứ không nhất thiết phải
là anh, chị cả.
* Về Người giám hộ
đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự:
+ Khoản 1 - Điều 62 BLDS 2005
quy định: “Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là
người giám hộ; nếu chồng mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ”.
Nhìn chung, quy định như vậy là phù hợp, nhưng trong một số trường hợp cụ thể
lại rất khó giải quyết theo luật. Vì khi một bên là chồng (hoặc vợ) muốn ly
hôn với người kia (bị mất năng lực hành vi dân sự) thì việc để người chồng
(hoặc vợ) làm người giám hộ cho bên kia sẽ không bảo vệ được quyền lợi của
bên mất năng lực hành vi dân sự.
+ Khoản 2 - Điều 62 BLDS 2005
quy định: “Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc
một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện
làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không
có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo là người giám
hộ”. Quy định này bất hợp lý ở chỗ người con cả chưa hẳn đã là người
thương yêu, có hiếu, quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng, có trách nhiệm với cha,
mẹ.
* Về Việc cử người
giám hộ:
Điều 63 BLDS 2005 và Nghị
định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ Về đăng ký và
quản lý hộ tịch đã có hướng dẫn, quy định về các trường hợp cử người
giám hộ, về trình tự, thủ tục cử người giám hộ… nhưng một số UBND xã, phường
một phần không am hiểu quy định của pháp luật, phần vì không có cá nhân hoặc
tổ chức tự nguyện, đồng ý nhận giám hộ nên địa phương rất ngại, không hợp tác
với Tòa án trong việc cử người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự,
dẫn đến việc Tòa án không thể giải quyết được vụ án.
* Về Điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự:
+ Điều 122 BLDS 2005 quy định
về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, trong đó có điều kiện về
người tham gia giao dịch (phải có năng lực hành vi dân sự và hoàn toàn tự
nguyện). Quy định này chưa làm rõ điều kiện chủ thể của một giao dịch dân sự
và chưa phân biệt chủ thể với người trực tiếp tiến hành giao dịch. Giao dịch
dân sự có thể do cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác thực hiện và do vậy, vấn đề
năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân và các chủ thể khác là yếu tố quan
trọng để xác định hiệu lực của giao dịch. Bên cạnh đó, người trực tiếp thực
hiện giao dịch không phải lúc nào cũng đồng nhất với chủ thể của giao dịch mà
có thể là người đại diện và trong trường hợp là người đại diện thì thẩm quyền
đại diện phải trở thành điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Mặt khác, Điều
122 chỉ quy định nội dung và mục đích giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên, để có hiệu lực thì nội dung
và mục đích của giao dịch không chỉ "không vi phạm điều cấm" mà
phải rộng hơn, đó là "không trái pháp luật".
* Về Giao dịch dân sự vô
hiệu:
Điều 127 BLDS 2005 quy định:
“Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122
của Bộ luật này thì vô hiệu”. Ngoài trường hợp vô hiệu do vi phạm Điều 122
như trên, BLDS 2005 còn có các điều khoản cụ thể nêu các trường hợp giao dịch
dân sự vô hiệu như Điều 128 (giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật, trái đạo đức xã hội), Điều 129 (giao dịch dân sự vô hiệu do giả
tạo), Điều 130 (giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện), Điều 131 (giao dịch dân sự vô
hiệu do bị nhầm lẫn), Điều 132 (giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe
dọa), Điều 133 (giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình), Điều 134 (giao dịch dân sự vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức). Như vậy, những trường hợp vô hiệu quy định
tại các Điều từ 128 đến 134 đã cụ thể hóa trường hợp vô hiệu do không tuân
thủ các điều kiện như quy định tại Điều 122 BLDS 2005, nên sự tồn tại của
Điều 127 là không cần thiết.
* Về Giao dịch dân sự
vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức:
Điều 134 BLDS 2005 quy định:
“trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một
hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các
bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá
thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”. Quy định này trên
thực tế chỉ có ý nghĩa trong trường hợp cả hai bên chủ thể của giao dịch đều
có thiện chí mong muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên trường hợp này
hầu như không xảy ra. Bởi việc yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu là do một
bên yêu cầu, có nghĩa là họ mong muốn hợp đồng đó không được tiếp tục thực
hiện nữa nên lợi dụng việc vi phạm về mặt hình thức để yêu cầu Tòa án tuyên
bố vô hiệu và không hợp tác với bên còn lại trong hợp đồng để cùng ra công
chứng chứng thực hợp đồng theo yêu cầu của Tòa án. Hậu quả là việc Tòa án yêu
cầu hoàn thiện về mặt hình thức của giao dịch dân sự đó hầu như không bao giờ
được các đương sự thực hiện.
* Về Hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự vô hiệu:
Điều 137 BLDS 2005 quy định:
“Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện
vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi,
lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây
thiệt hại phải bồi thường”.
+ Quy định này chưa xác định
việc hoàn trả bằng tiền theo giá trị của vật tại thời điểm giao kết hay thời
điểm hoàn trả. Quy định này cũng chưa tính đến trường hợp có hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản đã giao thì ai sẽ là người nhận phần phát sinh đó. Đây
là trường hợp khá phức tạp vì có những trường hợp hoa lợi, lợi tức phát sinh
một cách tự nhiên nhưng có trường hợp lại là do công sức của người nhận
chuyển giao tài sản, nếu BLDS không quy định về trường hợp này thì sẽ không
đủ cơ sở để giải quyết tranh chấp giữa các bên.
+ Đối với những tài sản là
nhà, đất không còn nguyên giá trị ban đầu thì giải quyết như thế nào và cần
áp dụng khung giá nào khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Thực tế có
sự chênh lệch giá quá cao giữa giá nhà đất do UBND cấp tỉnh quy định với giá
thị trường tại thời điểm xét xử.
+ Bên cạnh đó, không phải giao
dịch lúc nào cũng vô hiệu tuyệt đối bởi có những trường hợp giao dịch rơi vào
trường hợp vô hiệu nhưng các bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ giao dịch
và lợi ích của việc công nhận giao dịch lớn hơn lợi ích của việc hủy giao
dịch thì cần công nhận giao dịch đó và việc vi phạm của các bên có thể xử lý
bằng các biện pháp pháp lý khác.
1.2. Phần thứ hai: Tài sản và
quyền sở hữu
* Về Xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu:
+ Khoản 1 - Điều 247 BLDS
2005 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối
với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản
2 Điều này”. Quy định “trong thời hạn” như ở điều luật
này là chưa rõ, chưa chuẩn xác, có thể gây ra những cách hiểu khác nhau. Có
quan điểm cho rằng: từ đủ chín năm một ngày cho đến tròn mười năm và từ đủ
hai mươi chín năm một ngày cho đến tròn ba mươi năm được hiểu đều nằm trong
khái niệm “mười năm” và “ba mươi năm”. Quan điểm khác lại cho
rằng “thời hạn” ở điều luật này là phải được tính từ khi tròn mười
năm và tròn ba mươi năm trở lên.
+ Khoản 2 - Điều 247 BLDS
2005 quy định: “Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không
có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm
hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó”. Quy định trên
có quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất không thuộc đối tượng được xem xét
theo quy định của Khoản 1 - Điều 247, vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Nhưng, cũng có quan điểm cho rằng tuy đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng
người sử dụng đất hợp pháp có rất nhiều quyền dân sự mà pháp luật đất đai và
BLDS đã ghi nhận. Mặt khác, tại Điều 163 BLDS 2005 quy định về tài sản: “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Ta hiểu quyền sử
dụng đất chính là một quyền về tài sản có thể tham gia giao dịch (tặng, cho,
trao đổi…) để chuyển quyền sử dụng đất cho người khác. Điều 247 BLDS 2005 cho
phép người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật,
nhưng ngay tình, liên tục, công khai có quyền được hưởng quyền dân sự theo
thời hiệu không chỉ với đối tượng là động sản mà cả bất động sản. Đất đai cũng
là một loại bất động sản. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng được Nhà nước
trao quyền dân sự về đất đai cho người dân, nên những chủ thể được hưởng
quyền dân sự theo thời hiệu mà đối tượng tài sản là quyền sử dụng đất thì chủ
thể đó sẽ được hưởng các quyền của người sử dụng đất mà luật đã quy định, chứ
không phải các chủ thể được hưởng quyền dân sự theo thời hiệu sẽ trở thành
chủ sở hữu về đất đai. BLDS 2005 chưa quy định cụ thể vấn đề này nên trong
thực tiễn có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật khác
nhau.
+ BLDS 2005 cũng chưa quy
định loại việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu sẽ thuộc thẩm quyền của cơ
quan nào. Hiện nay, có quan điểm cho rằng: Đối với các trường hợp việc chiếm
hữu thỏa mãn các điều kiện được quy định ở Điều 247 BLDS mà không có tranh
chấp thì thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính, đó là: tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu, bên đang chiếm hữu đến cơ quan hành chính để làm thủ tục xác
lập quyền sở hữu, nếu là nhà, đất đến UBND xã lập quyền sở hữu nhà, quyền sử
dụng đất…Nếu việc chiếm hữu đó thỏa mãn điều kiện được quy định của Điều 247
BLDS mà xảy ra tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của Tòa án. Người yêu cầu Tòa
án xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cho họ phải thực hiện nghĩa vụ xuất
trình tài liệu, chứng cứ chứng minh họ là người chiếm hữu tài sản ngay tình,
liên tục, công khai và tài sản đó không thuộc sở hữu Nhà nước.
1.3. Phần thứ ba: Nghĩa vụ
dân sự và hợp đồng dân sự
* Về Trách nhiệm dân sự do
chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự:
+ Khoản 2 - Điều 305 BLDS
2005 quy định: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó
phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Thực tế hiện
nay, mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố chỉ là mức lãi suất có tính
định hướng để các tổ chức tín dụng tham khảo ấn định mức lãi suất huy động
vốn và mức lãi suất cho vay đối với khách hàng. Trên thực tế, mức lãi suất cơ
bản luôn thấp hơn mức lãi suất huy động vốn và thấp hơn rất nhiều so với mức
lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Nếu việc chậm trả tiền chỉ dẫn đến
nghĩa vụ phải trả lãi theo lãi suất cơ bản thì việc chậm trả tiền đương nhiên
là có lợi cho người có nghĩa vụ trả tiền và vô hình chung khuyến khích các
đương sự chiếm dụng vốn của nhau thông qua việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán.
+ Mặt khác, Điều
305 BLDS 2005 quy định trách nhiệm do việc chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự tại
hai khoản, tuy nhiên, nội dung của hai khoản trong điều luật này đặt ra tranh
cãi: đây là hai quy định loại trừ nhau hay có thể áp dụng trong cùng một tình
huống? Cụ thể là: trong trường hợp người có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trả
tiền thì họ chỉ phải chịu trách nhiệm theo Khoản 2 - Điều 305 hay họ phải
chịu trách nhiệm tại cả hai khoản? Nếu người có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trả
tiền phải chịu trách nhiệm theo quy định tại toàn văn điều luật thì có nghĩa
là, người có quyền không những được yêu cầu người có nghĩa vụ phải thực hiện
đầy đủ, đúng nghĩa vụ, mà còn được quyền yêu cầu người có nghĩa vụ phải bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng; còn nếu người có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ
trả tiền chỉ phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Khoản 2 - Điều 305 thì
người có quyền chỉ được yêu cầu người có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ, đúng
nghĩa vụ và được đền bù thiệt hại theo thỏa thuận đã có trong hợp đồng hoặc
được hưởng lãi trên số tiền chậm được nhận, theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố, mà không có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ phải bồi thường
thiệt hại. Sự thể hiện không rõ ràng trong Điều luật này có thể tạo ra tranh
chấp giữa các bên trong các tình huống tương ứng và Tòa án không đủ cơ sở
pháp lý để giải quyết và có thể sẽ có những cách vận dụng pháp luật khác nhau
tại các cơ quan Tòa án khác nhau.
* Về Chuộc lại tài sản đã
bán:
Điều 462 BLDS 2005 quy định
về chuộc lại tài sản đã bán. Đây là sự thỏa thuận giữa bên bán và bên mua tài
sản được pháp luật công nhận. Khoản 2 – Điều 462 quy định: “Trong thời hạn
chuộc lại, bên mua không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, thế chấp,
cầm cố tài sản, phải chịu rủi ro đối với tài sản”. Theo đó, bên mua tài
sản trong thời hạn chuộc tài sản đã bị hạn chế quyền sở hữu tài sản mà mình
đã mua. Trong thực tế công tác xét xử, đã phát sinh những quan hệ liên quan
tới tài sản trong thời hạn chuộc như: người mua có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản này không? Một trong người bán hoặc người mua chết thì những
người thừa kế của họ có được quyền hưởng quyền chuộc hoặc cho chuộc lại tài
sản không?
* Về Nghĩa vụ trả nợ của bên
vay:
Khoản 4 - Điều 474 BLDS quy
định: “Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả
nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả
theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn
chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận”. Thực tế
trong xét xử các vụ án tranh chấp hợp đồng vay, quy định này không phù hợp
với thực tế và không đảm bảo quyền lợi người cho vay, dẫn đến tình trạng bên
vay cố tình kéo dài thời gian trả nợ mà chỉ phải chịu lãi suất cơ bản do Ngân
hàng nhà nước công bố.
* Vấn đề lãi suất:
Khoản 1 - Điều 476 BLDS 2005
quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”. Quy định mức trần lãi suất không vượt quá 150% là không phù
hợp vì không đảm bảo quyền lợi của người cho vay, tạo điều kiện cho người vay
tiền cố tình kéo dài thời gian trả nợ nhưng vẫn chịu một mức lãi suất rất
thấp. Hiện nay Tòa án tỉnh Khánh Hòa thụ lý rất nhiều vụ án tranh chấp hợp
đồng tín dụng của các ngân hàng, nhưng BLDS không có các điều luật cụ thể đều
chỉnh các quan hệ tranh chấp này. Vì vậy, khi có tranh chấp khởi kiện ra tòa
án, việc áp dụng các quy định của BLDS về hợp đồng vay tài sản đã phát sinh
nhiều quan điểm khác nhau: có quan điểm cho rằng áp dụng tính lãi theo quy
định tại Điều 476 BLDS, nhưng cũng có quan điểm cho rằng phải căn cứ theo mức
lãi suất ghi trong hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa ngân hàng với người vay
tiền.
1.4. Phần thứ tư: Thừa kế
* Về Từ chối nhận di sản:
Khoản 3 - Điều 642 BLDS quy
định: “Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế.
Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được
coi là đồng ý nhận thừa kế”. Quy định này rất khó áp dụng vào thực
tế vì thường các vụ tranh chấp về thừa kế khởi kiện là sau 06 tháng kể từ
ngày thừa kế mở. Lúc này thì mới phát sinh việc ai muốn hoặc từ chối nhận
thừa kế. Trong trường hợp nếu một người liên quan trong vụ án thừa kế có văn
bản từ chối nhận kỷ phần thừa kế của mình thì Tòa án áp dụng Điều 642 không
chấp nhận yêu cầu này với lý do đã quá thời hạn 06 tháng nên đương sự không
được quyền từ chối. Như vậy là không thuyết phục và can thiệp quá sâu vào
quyền của đương sự.
* Về Sửa đổi, bổ sung, thay
thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng:
Khoản 2 - Điều 664 BLDS quy
định: “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc
chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người
kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của
mình”. Trên thực tế, khi lập chung di chúc, vợ chồng thường định
đoạt, phân chia tài sản cho các thừa kế thường là không đều nhau như khi Tòa
chia thừa kế. Tài sản chung của vợ chồng là hợp nhất nên không thể xác định
phần tài sản của mỗi người (vợ/chồng) cụ thể là tài sản nào; tài sản
của chồng là cho ai, tài sản của vợ là cho ai. Do đó, nếu một người đã chết,
người còn lại thay đổi di chúc thì coi như toàn bộ di chúc không có giá trị
pháp lý vì không thể xác định được di chúc có hiệu lực ½ là như thế nào.
Trong trường hợp nếu người còn sống có tài sản riêng thì khi lập di chúc phần
tài sản riêng của họ cũng sẽ được nhập vào phần tài sản chung và được phân
chia cụ thể. Do đó, nếu người còn sống được quyền thay đổi di chúc đối với
phần tài sản của mình thì nội dung di chúc sẽ không còn đúng với ý chí,
nguyện vọng, định đoạt của người đã chết. Ví dụ: Hai vợ chồng ông A bà B có
ngôi nhà chung trị giá 10 tỷ. Ông A có mảnh đất riêng trị giá 4 tỷ. Khi lập
di chúc, hai vợ chồng cho người con chung của mình là anh C ngôi nhà trị giá
10 tỷ, cho chị D (con riêng của bà B) mảnh đất trị giá 4 tỷ. Bà B chết trước,
ông A bèn sửa đổi di chúc cho luôn anh C mảnh đất 4 tỷ. Theo quy định Điều
664, việc làm của ông A là hợp pháp. Tuy nhiên không hợp tình, hợp lý ở chỗ,
nó đã xâm phạm đến quyền lợi của chị D và không đúng với ý chí, nguyện vọng
của bà B (đã chết). Khi còn sống, bà B đồng ý cho người con chung (anh C) ngôi
nhà 10 tỷ vì người con riêng của bà (chị D) cũng được chia phần mảnh đất 4
tỷ. Nếu bà B biết trước chị D không được gì thì chắc chắn bà không bao giờ
đồng ý cho người con chung toàn bộ khối tài sản chung là ngôi nhà 10 tỷ, mà
sẽ dành một phần của mình trong khối tài sản chung vợ chồng để chia thừa kế
cho người con riêng.
* Về Hiệu lực pháp luật của
di chúc chung của vợ, chồng:
Điều 668 BLDS 2005 quy định:
“Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết
hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Quy định này nhằm bảo vệ
quyền lợi cho người vợ / chồng còn sống, giúp cho tài sản chung không bị phân
chia ngay sau khi có một người chết trước. Tuy nhiên, qua thực tế xét xử các
vụ án tranh chấp thừa kế, nhận thấy quy định này cũng bộc lộ hạn chế. Đó là,
sau khi một người chết, người vợ (chồng) còn lại có thể còn sống 5 năm, 10
năm hoặc lâu hơn. Trong khi đó người sẽ được hưởng thừa kế đang có hoàn cảnh
rất khó khăn, chờ đến khi người còn lại chết rồi mới được hưởng phần di sản
thừa kế thì cũng bất cập. Thiết nghĩ, cần phải cân bằng lợi ích của các bên
khi xét đến quy định này. So sánh với BLDS 1995, Điều 671 quy định: “Trong
trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ
phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có
hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có
hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thi di sản của vợ,
chồng theo di chúc chung chỉ được chia từ thời điểm đó”. Quá trình áp dụng
quy định của BLDS 1995 về di chúc chung vợ chồng, chúng tôi thấy cũng không
có vướng mắc gì.
2. Đánh giá về mối quan hệ
chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lặp giữa quy định của Bộ luật dân sự với các quy
định pháp luật khác
2.1. Về Thời điểm chuyển
quyền sở hữu đối với tài sản:
Khoản 1 - Điều 168 BLDS quy
định: “Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ
thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Tuy nhiên, tại khoản 5 - Điều 93 của Luật nhà ở năm 2005 quy định: “Quyền
sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên
nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về
nhà ở giữa cá nhân với cá nhân…”.
Như vậy, một khối tài sản
thống nhất là nhà và đất nhưng thời điểm chuyển quyền giữa đất và nhà trên
đất lại khác nhau. Quy định như vậy gây khó khăn cho Tòa án khi xét xử.
2.2. Về xử lý vi phạm hợp
đồng:
Khi hợp đồng đã được giao kết
hợp pháp thì các bên phải thực hiện, tuy nhiên trên thực tế việc xử lý vi
phạm hợp đồng giữa BLDS 2005 và Luật thương mại 2005 chưa thống nhất. Khoản 2
- Điều 422 BLDS 2005 quy định: “Mức phạt vi phạm do các bên thoả
thuận”, trong khi đó Điều 301 Luật thương mại quy định: “Mức
phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật
này”. Cùng điều chỉnh về một vấn đề nhưng rõ ràng có sự khác biệt
giữa các văn bản. Mặt khác, mối quan hệ về chế tài phạt vi phạm và bồi thường
thiệt hại cũng không có sự thống nhất. Theo quy định của khoản 1
- Điều 307 Luật thương mại: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận
phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại,
trừ trường hợp Luật này có quy định khác”, trong khi khoản 3 - ĐIều
422 BLDS 2005 lại quy định: “Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận
về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt”.
Như vậy, nếu không có sự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên bị vi
phạm không có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại. Thiếu sự thống
nhất giữa Bộ luật dân sự và Luật thương mại sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng
luật để giải quyết tranh chấp trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
2.3. Vấn đề lãi suất:
Khoản 1 - Điều 476 BLDS 2005
quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”.
Quy định này thể hiện sự áp
đặt bất hợp lý và đang tạo ra những rủi ro pháp lý cho các hoạt động cho vay
nói chung và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng. Theo quy
định của Luật ngân hàng Nhà nước thì “Ngân hàng Nhà nước
công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để
điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.” Việc BLDS quy định mức trần
lãi suất không vượt quá 150% cũng với mục đích chống cho vay nặng lãi. Tuy
nhiên, việc đặt ra tỷ lệ 150% là không phù hợp vì lãi suất cơ bản thường được
quan niệm là lãi suất định hướng và ở mức rất thấp so với lãi suất thị
trường. Do vậy mức 150% không đủ để đảm bảo mức lãi suất hợp lý thông thường
trên thực tế mà các tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ cho vay cần áp dụng.
Trên thực tế, phần lớn các tổ chức, cá nhân cho vay đều phải áp dụng mức lãi
suất vượt quá mức lãi suất tối đa được quy định tại BLDS và do vậy, các hợp
đồng cho vay luôn ở trong tình trạng có thể bị tuyên bố vô hiệu bất kỳ lúc
nào.
Theo Thông tư số
07/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010 của Ngân hàng Nhà nước quy định về cho vay
bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng, Điều 1 quy định: “Tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam
theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng phù hợp với quy định của pháp
luật về cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và trên cơ sở cung -
cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm của khách hàng vay”. Quy định này
cho phép các tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất thị trường, đồng thời tạo ra
hai mặt bằng pháp lý đối với hoạt động cho vay: tổ chức tín dụng cho vay theo
lãi suât thị trường còn các tổ chức, cá nhân khác cho vay theo lãi suất quy
định tại BLDS. Điều này tạo ra sự không thống nhất trong hệ thống
pháp luật, đồng thời vẫn không loại trừ được rủi ro của các tổ chức tín dụng
với lý do Thông tư 07 nêu trên có hiệu lực thấp hơn BLDS và vì vậy, hợp đồng
tín dụng của họ có thể bị tuyên vô hiệu bất kỳ lúc nào.
2.4. Vấn đề về thời hiệu khởi
kiện, thời hiệu yêu cầu:
Một số quy định về thời hiệu
khởi kiện, thời hiệu yêu cầu trong BLDS 2005 (Điều 427. Thời hiệu khởi
kiện về hợp đồng dân sự ; Điều 607. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại; Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế; Điều 777. Thời hiệu khởi
kiện đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài) trùng lắp với quy định
về thời hiệu trong Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 (Điều
159. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu).
3. Xác định những vấn đề phát
sinh trong thực tiễn giao lưu dân sự chưa được pháp luật quy định và cần được
pháp luật điều chỉnh
3.1. Về Huỷ bỏ hợp đồng dân
sự:
Khoản 1 - Điều 425 BLDS 2005
quy định: “Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt
hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận
hoặc pháp luật có quy định”. Tiếp đó, Khoản 1 - Điều 426 quy định: “Một bên
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có thoả thuận
hoặc pháp luật có quy định”. Như vậy, khi một bên vi phạm hợp đồng, bên kia
có quyền yêu cầu đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng khi vi phạm hợp đồng là điều
kiện đình chỉ hay hủy bỏ “mà các bên đã thỏa thuận” hoặc “pháp luật có
quy định”.
Nghiên cứu các quy định về
các hợp đồng cụ thể trong BLDS - đặc biệt là hợp đồng mua bán - thì không có
điều, khoản nào quy định về hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng (ngoại trừ Điều 494 “Quyền
của bên cho thuê nhà ở”). Theo Khoản 1 - Điều 425 thì nếu các bên không
có các thỏa thuận trước về điều kiện hủy bỏ thì hợp đồng không thể bị hủy bỏ.
Quy định như vậy là bất hợp lý, không bảo vệ được quyền lợi của bên nghiêm
túc thực hiện hợp đồng và dung túng cho sự vi phạm của một bên khi pháp luật
không có cơ chế bảo vệ hữu hiệu. Trên thực tế các tranh chấp liên quan đến
hợp đồng mua bán tài sản, nhất là mua bán nhà và một bên yêu cầu hủy hợp đồng
do bên kia vi phạm nghĩa vụ dân sự (thường là nghĩa vụ trả tiền) không phải
là hiếm. Và, tòa án vẫn chấp nhận hủy hợp đồng nếu một bên không có thỏa
thuận trước về điều này khi giao kết hợp đồng.
3.2. Về hợp đồng ủy quyền:
BLDS năm 2005 (chương XVIII,
mục 12 Hợp đồng ủy quyền, từ Điều 581 đến Điều 589) không có điều luật nào
quy định về hình thức của hợp đồng uỷ quyền. So sánh với BLDS năm 1995, có
Điều 586 quy định về hình thức của hợp đồng ủy quyền như sau: “Hợp đồng ủy
quyền phải được lập thành văn bản; nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định, thì hợp đồng ủy quyền phải có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc
chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền”. Qua thực tế xét
xử các vụ án dân sự khi có ủy quyền, Tòa án vẫn phải đòi hỏi các hợp đồng ủy
quyền phải có công chứng hoặc xác nhận của chính quyền địa phương để đảm bảo
giá trị pháp lý của hợp đồng ủy quyền mặc dù BLDS 2005 không quy định.
3.3. Về Thời hiệu khởi kiện
về thừa kế:
+ Điều 645 BLDS 2005 quy
định: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận
quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm,
kể từ thời điểm mở thừa kế”. Tuy nhiên, BLDS 2005 lại không có điều luật
nào quy định đối với phần di sản đã hết thời hiệu khởi kiện thì giải quyết
như thế nào, thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ai ? Thực tế, có nhiều trường
hợp khi đương sự khởi kiện thừa kế, Tòa án phải trả lại đơn với lý do đã hết
thời hiệu khởi kiện. Khi người dân đi đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng
đất thì cơ quan chức năng yêu cầu phải có sự đồng ý của tất cả các đồng thừa
kế hoặc bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án giao quyền sở hữu, sử dụng
cho họ. Như vậy, vô tình các quy định pháp luật làm cho người dân rơi vào
tình cảnh không thể có quyền sở hữu, sử dụng di sản thừa kế mà lẽ ra họ có
thể được hưởng quyền này.
+ Mặt khác, quy định thời
hiệu mười năm trong điều luật này là quá ngắn. Hầu hết người Việt Nam không
có thói quen chia di sản ngay sau khi người thân chết, nhất là khi một bên
cha hoặc mẹ vẫn còn sống. Chính vì thực tế này mà dường như có xu hướng hạn
chế việc xem xét hết thời hiệu (hay hậu quả của việc hết thời hiệu), nhằm cho
phép các thừa kế vẫn còn khả năng chia di sản của người thân để lại. Ví dụ:
Ngày 10/8/2004, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết
02/2004/NQ-HĐTP về Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Theo đó: “Trường
hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế
không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa
kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh
chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia
thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế”. Tuy nhiên,
việc thực hiện hướng dẫn này trên thực tế cũng không đơn giản. Vì, trong
những vụ án cụ thể luôn có những quan điểm khác nhau về việc có đủ điều kiện
để áp dụng Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP để di sản thừa kế trở thành tài sản
chung hay không. Và, Tòa án thay vì giải quyết tranh chấp về thừa kế thì giải
quyết tranh chấp chia tài sản chung.
III. NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Từ những bất cập, hạn chế nêu
trên của BLDS 2005, chúng tôi có những đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ
sung một số điều trong BLDS, cụ thể như sau:
1- Điều 60: Đề nghị bổ sung
thêm điều kiện: Quyền lợi của người giám hộ và người được giám hộ không mâu
thuẫn nhau.
2- Điều 62:
- Khoản 1: Nên quy định là
cha, mẹ, hoặc con đã thành niên của người mất năng lực hành vi dân sự là
người giám hộ đương nhiên hoặc là giám hộ cử.
- Khoản 2: Nên sửa lại là
người con trực tiếp nuôi dưỡng cha mẹ là người giám hộ đương nhiên của cha,
mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
3- Điều 63: Luật cần quy
định cụ thể hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm của chính quyền cơ sở phải thực hiện
việc cử người giám hộ theo yêu cầu của Tòa án.
4- Điều 122: Đề
nghị để giao dịch có hiệu lực thì về mặt chủ thể, cần quy
định chủ thể của giao dịch dân sự có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với
phạm vi nội dung của giao dịch và người trực tiếp thực hiện giao dịch nhân
danh chính mình hoặc có đủ thẩm quyền để đại diện cho chủ thể của giao dịch; nội dung và mục
đích của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội và có thể thực hiện
được; giao dịch
phải được tiến hành trên cơ sở tự nguyện, tự định đoạt ý chí của chủ thể và
các bên phải tiến hành giao dịch với sự thiện chí, trung thực.
5- Điều 127: Đề nghị nên bỏ
quy định này.
6- Điều 134: Đề nghị
BLDS không nên coi hình thức bắt buộc là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch mà chỉ là yếu tố để đảm bảo tính an toàn pháp lý cho giao
dịch. Khi Tòa án đã yêu cầu các bên hoàn
thiện về mặt hình thức giao dịch dân sự - nếu một trong các bên (trong hợp
đồng) vẫn cố tình không thực hiện thì cần phải coi là giao dịch đó có hiệu
lực.
7- Điều 136: Đề nghị không
nên quy định về thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu mà nên đưa loại
thời hiệu yêu cầu đòi quyền lợi, thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự
vào Phần Quy định chung về Thời hiệu.
8- Điều 137: Đề nghị bổ sung quy
định về giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu: Nếu không
hoàn trả được bằng hiện vật mà hoàn trả bằng tiền thì tính theo giá trị của
vật tại thời điểm hoàn trả. Trong trường hợp tài sản mà các bên chuyển giao có phát
sinh hoa lợi, lợi tức: nếu hoa lợi, lợi tức phát sinh một cách tự nhiên thì
phải trả lại cùng với tài sản và người trả lại được thanh toán chi phí quản
lý. Nếu hoa lợi, lợi tức hoàn toàn do kết quả của sáng kiến và công sức lao
động của bên quản lý tài sản thì người quản lý tài sản không phải chuyển giao
lại cùng với tài sản, nhưng phải thanh toán chi phí sử dụng tài sản cho bên
kia. Đồng
thời, cần có quy định những trường hợp giao dịch vô hiệu tương đối: là những trường hợp không
tuân thủ đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch nhưng không bị vô
hiệu.
9- Điều 305:
+ Khoản 2: Đề nghị BLDS nên quy
định trách nhiệm nếu chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì phải trả lãi suất
quá hạn theo hợp đồng đã ký kết.
+ Mặt khác, để tránh sự
không rõ ràng cũng như khắc phục các điểm không rõ của điều 305, thì trách
nhiệm dân sự trong trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ cần được quy định lại
theo hướng bên chậm thực hiện nghĩa vụ gây thiệt hại thì phải bồi thường
thiệt hại. Tiền lãi không cần quy định riêng trong một khoản mà nên coi là
thiệt hại nói chung. Việc sửa đổi theo hướng này đồng thời cũng đòi hỏi BLDS
phải có quy định rõ ràng, cụ thể và hợp lý hơn về cách tính thiệt hại.
10- Khoản 1 - Điều 425: Đề
nghị BLDS 2005 nên bổ sung quy định về hủy bỏ hay đình chỉ hợp đồng bị vi
phạm khi việc vi phạm đó ảnh hưởng lớn đến hợp đồng, ngay cả khi các bên
không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định khi bên kia vi phạm nghiêm
trọng hợp đồng.
11- Về hợp đồng ủy quyền: Đề
nghị BLDS cần có quy định về hình thức của hợp đồng ủy quyền như BLDS 1995.
12- Điều 474: Đề nghị BLDS
quy định rõ: cho dù hợp đồng vay thỏa thuận không có lãi, nhưng khi bên vay
đã vi phạm hợp đồng và có tranh chấp, nếu bên cho vay yêu cầu tính lãi
thì phải đáp ứng yêu cầu này để đảm bảo quyền lợi của người cho vay.
13- Điều 476: Tòa án nhân dân
tối cao đã có hướng dẫn việc tính lãi và cả lãi suất nợ quá hạn đối với các
khoản vay của tổ chức tín dụng, ngân hàng là phải căn cứ theo đúng hợp đồng
đã ký kết và thời gian được tính kể từ khi giao dịch đến khi thi hành án
xong. Theo Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, việc Tòa án nhân dân tối cao quy
định như vậy là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn. Để đảm bảo quyền
lợi của các tổ chức, cá nhân trong các quan hệ cho vay, đồng thời thực hiện
mục tiêu chống cho vay nặng lãi, đề nghị BLDS cần có quy định cụ thể như
trên để quá trình áp dụng luật được thống nhất và đồng bộ.
14- Điều 642: Đề nghị BLDS
2005 nên xem xét bỏ điều luật này.
15- Điều 645: Đề nghị
BLDS bổ sung thêm điều luật quy định đối với phần di sản hết thời hiệu
khởi kiện thì thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người đang quản lý, sử dụng di
sản thừa kế. .Đồng thời kéo dài thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đến 15
năm hoặc 20 năm để phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam.
16- Khoản
5 - Điều 652: Đề nghị BLDS cần có quy định cụ thể ai là người
đưa di chúc đi công chứng (hai người làm chứng hoặc người được hưởng di sản
thừa kế).
17- Khoản 2 - Điều 664: Đề
nghị nên quy định: “… Nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa
đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình mà không trái với
nguyện vọng, ý chí của người đã chết lúc còn sống”.
18- Điều 668: Đề nghị BLDS
quy định “Về Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng” trở lại
nguyên như Điều 671 - BLDS 1995.
19- Bên cạnh đó, vẫn còn có
một số vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn giao lưu dân sự hiện chưa được
điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có được
coi là tài sản hay không; Quan hệ giao kết hợp đồng có yếu tố nước ngoài chưa
được điều chỉnh một cách cụ thể; Quan hệ thừa kế phát sinh khi thai nhi hình
thành trước khi người để lại di sản chết; Các loại hợp đồng thông dụng phát
sinh như: hợp đồng cung cấp điện năng, nước, điện thoại; Hợp đồng mua bán
hoặc cho thuê doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh; Hợp đồng cho thuê tài chính;
Hợp đồng kỹ thuật; Các hợp đồng liên quan đến hoạt động ngân hàng; Hợp đồng
liên doanh, liên kết kinh tế; Vấn đề nợ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…
Trên thực tế những vấn đề nêu trên đã được các đương sự giao dịch. Do đó, khi
phát sinh tranh chấp thì các cơ quan pháp luật lúng túng trong quá trình giải
quyết vì chưa được pháp luật quy định.
|
Những bất cập của Bộ luật dân
sự năm 2005 cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
I. ĐÁNH GIÁ SỰ TÁC ĐỘNG TÍCH
CỰC CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC THUỘC THẨM QUYỀN CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN
Bộ luật dân sự 2005 (được Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006) ra đời
trong bối cảnh đất nước đổi mới được gần 20 năm, thay thế cho Bộ luật dân sự
1995 đã bị lạc hậu so với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế và
các giao lưu trong đời sống xã hội sau khi công cuộc đổi mới được phát động
năm 1986 đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ đòi hỏi phải có một Bộ luật dân sự mói
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 có
vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Nó thể hiện
những quan điểm cơ bản nhất của nhà nước trong điều chỉnh các quan hệ pháp
luật tư, thiết lập các nguyên tắc quan trọng nhất cho các mối quan hệ trong
đời sống dân sự, đồng thời xác lập các quy tắc điều chỉnh cho quan hệ dân sự
phát sinh (thậm chí cả những trường hợp được dự liệu có thể phát sinh). Các
đạo luật điều chỉnh các khía cạnh khác nhau của quan hệ pháp luật tư (như
thương mại, đất đai, tín dụng, sở hữu trí tuệ….) cũng đều phải căn cứ vào các
nguyên tắc chung của BLDS.
Nhìn chung, qua 07 năm thi
hành, BLDS 2005 đã có tác động rất tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước nói chung và trong hoạt động của ngành Tòa án nói riêng. Bộ
luật dân sự đã cụ thể hóa, chi tiết đại đa số các quan hệ xã hội trên cơ sở
của nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm
giữa các chủ thể, hạn chế tối đa sự can thiệp hành chính của nhà nước vào
quan hệ dân sự, tôn trọng và phát huy sự tự thỏa thuận, tự quyết định của các
chủ thể, phát huy vai trò to lớn trong việc tạo lập hành lang pháp lý điều
chỉnh các quan hệ dân sự, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích nhà nước và lợi
ích công cộng.
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự
2005 ra đời trong thời điểm nước ta cần hoàn tất các bước cần thiết cho việc
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, trong đó có việc rà soát và điều
chỉnh pháp luật cho phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ tổ
chức này. Và cũng vì được ban hành khá nhanh chóng và trong bối cảnh như vậy
nên đây cũng là nguyên nhân khiến Bộ luật dân sự 2005 được ban hành nhưng
chưa dựa trên những nghiên cứu đầy đủ và còn rất nhiều vấn đề cần phải được
bàn thảo, từ kỹ thuật lập pháp đến nội dung các quy định cụ thể.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
1. Đánh giá những bất cập,
hạn chế trong quy định của Bộ luật dân sự 2005
1.1. Phần thứ nhất: Những quy
định chung của BLDS 2005
* Về Người giám hộ
đương nhiên của người chưa thành niên:
Khoản 1 - Điều 61 BLDS 2005
quy định: “Trong trường hợp anh ruột, chị ruột không có thoả thuận khác
thì anh cả hoặc chị cả là người giám hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả
hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh, chị tiếp theo là
người giám hộ”. Quy định này có vẻ phù hợp với tư duy, tâm lý của người
Việt Nam là theo thứ bậc trong gia đình. Tuy nhiên trong thực tế, không hiếm
trường hợp người em chưa thành niên đang sống và được người anh, chị thứ chăm
sóc, nuôi dưỡng, còn người anh, chị cả bỏ mặc người em hoặc vì nhiều lý do
khác không thể chăm sóc em chưa thành niên. Bản chất của việc giám hộ là chăm
sóc, bảo vệ quyền lợi của người được giám hộ. Như vậy vấn đề đặt ra là ai
đang quan tâm chăm sóc cho người em chưa thành niên chứ không nhất thiết phải
là anh, chị cả.
* Về Người giám hộ
đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự:
+ Khoản 1 - Điều 62 BLDS 2005
quy định: “Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là
người giám hộ; nếu chồng mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ”.
Nhìn chung, quy định như vậy là phù hợp, nhưng trong một số trường hợp cụ thể
lại rất khó giải quyết theo luật. Vì khi một bên là chồng (hoặc vợ) muốn ly
hôn với người kia (bị mất năng lực hành vi dân sự) thì việc để người chồng
(hoặc vợ) làm người giám hộ cho bên kia sẽ không bảo vệ được quyền lợi của
bên mất năng lực hành vi dân sự.
+ Khoản 2 - Điều 62 BLDS 2005
quy định: “Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc
một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện
làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không
có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo là người giám
hộ”. Quy định này bất hợp lý ở chỗ người con cả chưa hẳn đã là người
thương yêu, có hiếu, quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng, có trách nhiệm với cha,
mẹ.
* Về Việc cử người
giám hộ:
Điều 63 BLDS 2005 và Nghị
định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ Về đăng ký và
quản lý hộ tịch đã có hướng dẫn, quy định về các trường hợp cử người
giám hộ, về trình tự, thủ tục cử người giám hộ… nhưng một số UBND xã, phường
một phần không am hiểu quy định của pháp luật, phần vì không có cá nhân hoặc
tổ chức tự nguyện, đồng ý nhận giám hộ nên địa phương rất ngại, không hợp tác
với Tòa án trong việc cử người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự,
dẫn đến việc Tòa án không thể giải quyết được vụ án.
* Về Điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự:
+ Điều 122 BLDS 2005 quy định
về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, trong đó có điều kiện về
người tham gia giao dịch (phải có năng lực hành vi dân sự và hoàn toàn tự
nguyện). Quy định này chưa làm rõ điều kiện chủ thể của một giao dịch dân sự
và chưa phân biệt chủ thể với người trực tiếp tiến hành giao dịch. Giao dịch
dân sự có thể do cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác thực hiện và do vậy, vấn đề
năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân và các chủ thể khác là yếu tố quan
trọng để xác định hiệu lực của giao dịch. Bên cạnh đó, người trực tiếp thực
hiện giao dịch không phải lúc nào cũng đồng nhất với chủ thể của giao dịch mà
có thể là người đại diện và trong trường hợp là người đại diện thì thẩm quyền
đại diện phải trở thành điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Mặt khác, Điều
122 chỉ quy định nội dung và mục đích giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên, để có hiệu lực thì nội dung
và mục đích của giao dịch không chỉ "không vi phạm điều cấm" mà
phải rộng hơn, đó là "không trái pháp luật".
* Về Giao dịch dân sự vô
hiệu:
Điều 127 BLDS 2005 quy định:
“Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122
của Bộ luật này thì vô hiệu”. Ngoài trường hợp vô hiệu do vi phạm Điều 122
như trên, BLDS 2005 còn có các điều khoản cụ thể nêu các trường hợp giao dịch
dân sự vô hiệu như Điều 128 (giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật, trái đạo đức xã hội), Điều 129 (giao dịch dân sự vô hiệu do giả
tạo), Điều 130 (giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện), Điều 131 (giao dịch dân sự vô
hiệu do bị nhầm lẫn), Điều 132 (giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe
dọa), Điều 133 (giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình), Điều 134 (giao dịch dân sự vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức). Như vậy, những trường hợp vô hiệu quy định
tại các Điều từ 128 đến 134 đã cụ thể hóa trường hợp vô hiệu do không tuân
thủ các điều kiện như quy định tại Điều 122 BLDS 2005, nên sự tồn tại của
Điều 127 là không cần thiết.
* Về Giao dịch dân sự
vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức:
Điều 134 BLDS 2005 quy định:
“trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một
hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các
bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá
thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”. Quy định này trên
thực tế chỉ có ý nghĩa trong trường hợp cả hai bên chủ thể của giao dịch đều
có thiện chí mong muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên trường hợp này
hầu như không xảy ra. Bởi việc yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu là do một
bên yêu cầu, có nghĩa là họ mong muốn hợp đồng đó không được tiếp tục thực
hiện nữa nên lợi dụng việc vi phạm về mặt hình thức để yêu cầu Tòa án tuyên
bố vô hiệu và không hợp tác với bên còn lại trong hợp đồng để cùng ra công
chứng chứng thực hợp đồng theo yêu cầu của Tòa án. Hậu quả là việc Tòa án yêu
cầu hoàn thiện về mặt hình thức của giao dịch dân sự đó hầu như không bao giờ
được các đương sự thực hiện.
* Về Hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự vô hiệu:
Điều 137 BLDS 2005 quy định:
“Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện
vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi,
lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây
thiệt hại phải bồi thường”.
+ Quy định này chưa xác định
việc hoàn trả bằng tiền theo giá trị của vật tại thời điểm giao kết hay thời
điểm hoàn trả. Quy định này cũng chưa tính đến trường hợp có hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản đã giao thì ai sẽ là người nhận phần phát sinh đó. Đây
là trường hợp khá phức tạp vì có những trường hợp hoa lợi, lợi tức phát sinh một
cách tự nhiên nhưng có trường hợp lại là do công sức của người nhận chuyển
giao tài sản, nếu BLDS không quy định về trường hợp này thì sẽ không đủ cơ sở
để giải quyết tranh chấp giữa các bên.
+ Đối với những tài sản là
nhà, đất không còn nguyên giá trị ban đầu thì giải quyết như thế nào và cần
áp dụng khung giá nào khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Thực tế có
sự chênh lệch giá quá cao giữa giá nhà đất do UBND cấp tỉnh quy định với giá
thị trường tại thời điểm xét xử.
+ Bên cạnh đó, không phải giao
dịch lúc nào cũng vô hiệu tuyệt đối bởi có những trường hợp giao dịch rơi vào
trường hợp vô hiệu nhưng các bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ giao dịch
và lợi ích của việc công nhận giao dịch lớn hơn lợi ích của việc hủy giao
dịch thì cần công nhận giao dịch đó và việc vi phạm của các bên có thể xử lý
bằng các biện pháp pháp lý khác.
1.2. Phần thứ hai: Tài sản và
quyền sở hữu
* Về Xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu:
+ Khoản 1 - Điều 247 BLDS
2005 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối
với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản
2 Điều này”. Quy định “trong thời hạn” như ở điều luật
này là chưa rõ, chưa chuẩn xác, có thể gây ra những cách hiểu khác nhau. Có
quan điểm cho rằng: từ đủ chín năm một ngày cho đến tròn mười năm và từ đủ
hai mươi chín năm một ngày cho đến tròn ba mươi năm được hiểu đều nằm trong
khái niệm “mười năm” và “ba mươi năm”. Quan điểm khác lại cho
rằng “thời hạn” ở điều luật này là phải được tính từ khi tròn mười
năm và tròn ba mươi năm trở lên.
+ Khoản 2 - Điều 247 BLDS
2005 quy định: “Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không
có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm
hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó”. Quy định trên
có quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất không thuộc đối tượng được xem xét
theo quy định của Khoản 1 - Điều 247, vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Nhưng, cũng có quan điểm cho rằng tuy đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng
người sử dụng đất hợp pháp có rất nhiều quyền dân sự mà pháp luật đất đai và
BLDS đã ghi nhận. Mặt khác, tại Điều 163 BLDS 2005 quy định về tài sản: “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Ta hiểu quyền sử
dụng đất chính là một quyền về tài sản có thể tham gia giao dịch (tặng, cho,
trao đổi…) để chuyển quyền sử dụng đất cho người khác. Điều 247 BLDS 2005 cho
phép người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật,
nhưng ngay tình, liên tục, công khai có quyền được hưởng quyền dân sự theo
thời hiệu không chỉ với đối tượng là động sản mà cả bất động sản. Đất đai cũng
là một loại bất động sản. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng được Nhà nước
trao quyền dân sự về đất đai cho người dân, nên những chủ thể được hưởng
quyền dân sự theo thời hiệu mà đối tượng tài sản là quyền sử dụng đất thì chủ
thể đó sẽ được hưởng các quyền của người sử dụng đất mà luật đã quy định, chứ
không phải các chủ thể được hưởng quyền dân sự theo thời hiệu sẽ trở thành
chủ sở hữu về đất đai. BLDS 2005 chưa quy định cụ thể vấn đề này nên trong
thực tiễn có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật khác
nhau.
+ BLDS 2005 cũng chưa quy
định loại việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu sẽ thuộc thẩm quyền của cơ
quan nào. Hiện nay, có quan điểm cho rằng: Đối với các trường hợp việc chiếm
hữu thỏa mãn các điều kiện được quy định ở Điều 247 BLDS mà không có tranh
chấp thì thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính, đó là: tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu, bên đang chiếm hữu đến cơ quan hành chính để làm thủ tục xác
lập quyền sở hữu, nếu là nhà, đất đến UBND xã lập quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng
đất…Nếu việc chiếm hữu đó thỏa mãn điều kiện được quy định của Điều 247 BLDS
mà xảy ra tranh chấp thì thuộc thẩm quyền của Tòa án. Người yêu cầu Tòa án
xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cho họ phải thực hiện nghĩa vụ xuất trình
tài liệu, chứng cứ chứng minh họ là người chiếm hữu tài sản ngay tình, liên
tục, công khai và tài sản đó không thuộc sở hữu Nhà nước.
1.3. Phần thứ ba: Nghĩa vụ
dân sự và hợp đồng dân sự
* Về Trách nhiệm dân sự do
chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự:
+ Khoản 2 - Điều 305 BLDS
2005 quy định: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó
phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà
nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Thực tế hiện
nay, mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố chỉ là mức lãi suất có tính
định hướng để các tổ chức tín dụng tham khảo ấn định mức lãi suất huy động
vốn và mức lãi suất cho vay đối với khách hàng. Trên thực tế, mức lãi suất cơ
bản luôn thấp hơn mức lãi suất huy động vốn và thấp hơn rất nhiều so với mức
lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Nếu việc chậm trả tiền chỉ dẫn đến
nghĩa vụ phải trả lãi theo lãi suất cơ bản thì việc chậm trả tiền đương nhiên
là có lợi cho người có nghĩa vụ trả tiền và vô hình chung khuyến khích các
đương sự chiếm dụng vốn của nhau thông qua việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán.
+ Mặt khác, Điều
305 BLDS 2005 quy định trách nhiệm do việc chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự tại
hai khoản, tuy nhiên, nội dung của hai khoản trong điều luật này đặt ra tranh
cãi: đây là hai quy định loại trừ nhau hay có thể áp dụng trong cùng một tình
huống? Cụ thể là: trong trường hợp người có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trả
tiền thì họ chỉ phải chịu trách nhiệm theo Khoản 2 - Điều 305 hay họ phải
chịu trách nhiệm tại cả hai khoản? Nếu người có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trả
tiền phải chịu trách nhiệm theo quy định tại toàn văn điều luật thì có nghĩa
là, người có quyền không những được yêu cầu người có nghĩa vụ phải thực hiện
đầy đủ, đúng nghĩa vụ, mà còn được quyền yêu cầu người có nghĩa vụ phải bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng; còn nếu người có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ
trả tiền chỉ phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Khoản 2 - Điều 305 thì
người có quyền chỉ được yêu cầu người có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ, đúng
nghĩa vụ và được đền bù thiệt hại theo thỏa thuận đã có trong hợp đồng hoặc
được hưởng lãi trên số tiền chậm được nhận, theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố, mà không có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ phải bồi thường
thiệt hại. Sự thể hiện không rõ ràng trong Điều luật này có thể tạo ra tranh
chấp giữa các bên trong các tình huống tương ứng và Tòa án không đủ cơ sở
pháp lý để giải quyết và có thể sẽ có những cách vận dụng pháp luật khác nhau
tại các cơ quan Tòa án khác nhau.
* Về Chuộc lại tài sản đã
bán:
Điều 462 BLDS 2005 quy định
về chuộc lại tài sản đã bán. Đây là sự thỏa thuận giữa bên bán và bên mua tài
sản được pháp luật công nhận. Khoản 2 – Điều 462 quy định: “Trong thời hạn
chuộc lại, bên mua không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, thế chấp,
cầm cố tài sản, phải chịu rủi ro đối với tài sản”. Theo đó, bên mua tài
sản trong thời hạn chuộc tài sản đã bị hạn chế quyền sở hữu tài sản mà mình
đã mua. Trong thực tế công tác xét xử, đã phát sinh những quan hệ liên quan
tới tài sản trong thời hạn chuộc như: người mua có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản này không? Một trong người bán hoặc người mua chết thì những
người thừa kế của họ có được quyền hưởng quyền chuộc hoặc cho chuộc lại tài
sản không?
* Về Nghĩa vụ trả nợ của bên
vay:
Khoản 4 - Điều 474 BLDS quy
định: “Trong trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả
nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả
theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn
chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận”. Thực tế
trong xét xử các vụ án tranh chấp hợp đồng vay, quy định này không phù hợp
với thực tế và không đảm bảo quyền lợi người cho vay, dẫn đến tình trạng bên
vay cố tình kéo dài thời gian trả nợ mà chỉ phải chịu lãi suất cơ bản do Ngân
hàng nhà nước công bố.
* Vấn đề lãi suất:
Khoản 1 - Điều 476 BLDS 2005
quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”. Quy định mức trần lãi suất không vượt quá 150% là không phù
hợp vì không đảm bảo quyền lợi của người cho vay, tạo điều kiện cho người vay
tiền cố tình kéo dài thời gian trả nợ nhưng vẫn chịu một mức lãi suất rất
thấp. Hiện nay Tòa án tỉnh Khánh Hòa thụ lý rất nhiều vụ án tranh chấp hợp
đồng tín dụng của các ngân hàng, nhưng BLDS không có các điều luật cụ thể đều
chỉnh các quan hệ tranh chấp này. Vì vậy, khi có tranh chấp khởi kiện ra tòa
án, việc áp dụng các quy định của BLDS về hợp đồng vay tài sản đã phát sinh
nhiều quan điểm khác nhau: có quan điểm cho rằng áp dụng tính lãi theo quy
định tại Điều 476 BLDS, nhưng cũng có quan điểm cho rằng phải căn cứ theo mức
lãi suất ghi trong hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa ngân hàng với người vay
tiền.
1.4. Phần thứ tư: Thừa kế
* Về Từ chối nhận di sản:
Khoản 3 - Điều 642 BLDS quy
định: “Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế.
Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được
coi là đồng ý nhận thừa kế”. Quy định này rất khó áp dụng vào thực
tế vì thường các vụ tranh chấp về thừa kế khởi kiện là sau 06 tháng kể từ
ngày thừa kế mở. Lúc này thì mới phát sinh việc ai muốn hoặc từ chối nhận
thừa kế. Trong trường hợp nếu một người liên quan trong vụ án thừa kế có văn
bản từ chối nhận kỷ phần thừa kế của mình thì Tòa án áp dụng Điều 642 không
chấp nhận yêu cầu này với lý do đã quá thời hạn 06 tháng nên đương sự không
được quyền từ chối. Như vậy là không thuyết phục và can thiệp quá sâu vào
quyền của đương sự.
* Về Sửa đổi, bổ sung, thay
thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng:
Khoản 2 - Điều 664 BLDS quy
định: “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc
chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người
kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của
mình”. Trên thực tế, khi lập chung di chúc, vợ chồng thường định
đoạt, phân chia tài sản cho các thừa kế thường là không đều nhau như khi Tòa
chia thừa kế. Tài sản chung của vợ chồng là hợp nhất nên không thể xác định
phần tài sản của mỗi người (vợ/chồng) cụ thể là tài sản nào; tài sản
của chồng là cho ai, tài sản của vợ là cho ai. Do đó, nếu một người đã chết,
người còn lại thay đổi di chúc thì coi như toàn bộ di chúc không có giá trị
pháp lý vì không thể xác định được di chúc có hiệu lực ½ là như thế nào.
Trong trường hợp nếu người còn sống có tài sản riêng thì khi lập di chúc phần
tài sản riêng của họ cũng sẽ được nhập vào phần tài sản chung và được phân
chia cụ thể. Do đó, nếu người còn sống được quyền thay đổi di chúc đối với
phần tài sản của mình thì nội dung di chúc sẽ không còn đúng với ý chí,
nguyện vọng, định đoạt của người đã chết. Ví dụ: Hai vợ chồng ông A bà B có
ngôi nhà chung trị giá 10 tỷ. Ông A có mảnh đất riêng trị giá 4 tỷ. Khi lập
di chúc, hai vợ chồng cho người con chung của mình là anh C ngôi nhà trị giá
10 tỷ, cho chị D (con riêng của bà B) mảnh đất trị giá 4 tỷ. Bà B chết trước,
ông A bèn sửa đổi di chúc cho luôn anh C mảnh đất 4 tỷ. Theo quy định Điều
664, việc làm của ông A là hợp pháp. Tuy nhiên không hợp tình, hợp lý ở chỗ,
nó đã xâm phạm đến quyền lợi của chị D và không đúng với ý chí, nguyện vọng
của bà B (đã chết). Khi còn sống, bà B đồng ý cho người con chung (anh C)
ngôi nhà 10 tỷ vì người con riêng của bà (chị D) cũng được chia phần mảnh đất
4 tỷ. Nếu bà B biết trước chị D không được gì thì chắc chắn bà không bao giờ
đồng ý cho người con chung toàn bộ khối tài sản chung là ngôi nhà 10 tỷ, mà
sẽ dành một phần của mình trong khối tài sản chung vợ chồng để chia thừa kế
cho người con riêng.
* Về Hiệu lực pháp luật của
di chúc chung của vợ, chồng:
Điều 668 BLDS 2005 quy định:
“Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết
hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Quy định này nhằm bảo vệ
quyền lợi cho người vợ / chồng còn sống, giúp cho tài sản chung không bị phân
chia ngay sau khi có một người chết trước. Tuy nhiên, qua thực tế xét xử các
vụ án tranh chấp thừa kế, nhận thấy quy định này cũng bộc lộ hạn chế. Đó là,
sau khi một người chết, người vợ (chồng) còn lại có thể còn sống 5 năm, 10
năm hoặc lâu hơn. Trong khi đó người sẽ được hưởng thừa kế đang có hoàn cảnh
rất khó khăn, chờ đến khi người còn lại chết rồi mới được hưởng phần di sản
thừa kế thì cũng bất cập. Thiết nghĩ, cần phải cân bằng lợi ích của các bên
khi xét đến quy định này. So sánh với BLDS 1995, Điều 671 quy định: “Trong
trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ
phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có
hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có
hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thi di sản của vợ,
chồng theo di chúc chung chỉ được chia từ thời điểm đó”. Quá trình áp dụng
quy định của BLDS 1995 về di chúc chung vợ chồng, chúng tôi thấy cũng không
có vướng mắc gì.
2. Đánh giá về mối quan hệ
chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lặp giữa quy định của Bộ luật dân sự với các quy
định pháp luật khác
2.1. Về Thời điểm chuyển
quyền sở hữu đối với tài sản:
Khoản 1 - Điều 168 BLDS quy
định: “Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ
thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Tuy nhiên, tại khoản 5 - Điều 93 của Luật nhà ở năm 2005 quy định: “Quyền
sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua, bên nhận tặng cho, bên thuê mua, bên
nhận đổi nhà ở kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng đối với giao dịch về
nhà ở giữa cá nhân với cá nhân…”.
Như vậy, một khối tài sản
thống nhất là nhà và đất nhưng thời điểm chuyển quyền giữa đất và nhà trên
đất lại khác nhau. Quy định như vậy gây khó khăn cho Tòa án khi xét xử.
2.2. Về xử lý vi phạm hợp
đồng:
Khi hợp đồng đã được giao kết
hợp pháp thì các bên phải thực hiện, tuy nhiên trên thực tế việc xử lý vi
phạm hợp đồng giữa BLDS 2005 và Luật thương mại 2005 chưa thống nhất. Khoản 2
- Điều 422 BLDS 2005 quy định: “Mức phạt vi phạm do các bên thoả
thuận”, trong khi đó Điều 301 Luật thương mại quy định: “Mức
phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật
này”. Cùng điều chỉnh về một vấn đề nhưng rõ ràng có sự khác biệt
giữa các văn bản. Mặt khác, mối quan hệ về chế tài phạt vi phạm và bồi thường
thiệt hại cũng không có sự thống nhất. Theo quy định của khoản 1
- Điều 307 Luật thương mại: “Trường hợp các bên không có thỏa thuận
phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại,
trừ trường hợp Luật này có quy định khác”, trong khi khoản 3 - ĐIều
422 BLDS 2005 lại quy định: “Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận
về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt”.
Như vậy, nếu không có sự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên bị vi
phạm không có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại. Thiếu sự thống
nhất giữa Bộ luật dân sự và Luật thương mại sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng
luật để giải quyết tranh chấp trong giai đoạn hội nhập quốc tế.
2.3. Vấn đề lãi suất:
Khoản 1 - Điều 476 BLDS 2005
quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”.
Quy định này thể hiện sự áp
đặt bất hợp lý và đang tạo ra những rủi ro pháp lý cho các hoạt động cho vay
nói chung và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng. Theo quy
định của Luật ngân hàng Nhà nước thì “Ngân hàng Nhà nước
công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để
điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.” Việc BLDS quy định mức trần
lãi suất không vượt quá 150% cũng với mục đích chống cho vay nặng lãi. Tuy
nhiên, việc đặt ra tỷ lệ 150% là không phù hợp vì lãi suất cơ bản thường được
quan niệm là lãi suất định hướng và ở mức rất thấp so với lãi suất thị
trường. Do vậy mức 150% không đủ để đảm bảo mức lãi suất hợp lý thông thường
trên thực tế mà các tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ cho vay cần áp dụng.
Trên thực tế, phần lớn các tổ chức, cá nhân cho vay đều phải áp dụng mức lãi
suất vượt quá mức lãi suất tối đa được quy định tại BLDS và do vậy, các hợp
đồng cho vay luôn ở trong tình trạng có thể bị tuyên bố vô hiệu bất kỳ lúc
nào.
Theo Thông tư số
07/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010 của Ngân hàng Nhà nước quy định về cho vay
bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng, Điều 1 quy định: “Tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam
theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng phù hợp với quy định của pháp luật
về cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và trên cơ sở cung - cầu
vốn thị trường, mức độ tín nhiệm của khách hàng vay”. Quy định này cho
phép các tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất thị trường, đồng thời tạo ra hai
mặt bằng pháp lý đối với hoạt động cho vay: tổ chức tín dụng cho vay theo lãi
suât thị trường còn các tổ chức, cá nhân khác cho vay theo lãi suất quy định
tại BLDS. Điều này tạo ra sự không thống nhất trong hệ thống pháp
luật, đồng thời vẫn không loại trừ được rủi ro của các tổ chức tín dụng với
lý do Thông tư 07 nêu trên có hiệu lực thấp hơn BLDS và vì vậy, hợp đồng tín
dụng của họ có thể bị tuyên vô hiệu bất kỳ lúc nào.
2.4. Vấn đề về thời hiệu khởi
kiện, thời hiệu yêu cầu:
Một số quy định về thời hiệu
khởi kiện, thời hiệu yêu cầu trong BLDS 2005 (Điều 427. Thời hiệu khởi
kiện về hợp đồng dân sự ; Điều 607. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường
thiệt hại; Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế; Điều 777. Thời hiệu khởi
kiện đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài) trùng lắp với quy định
về thời hiệu trong Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 (Điều
159. Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu).
3. Xác định những vấn đề phát
sinh trong thực tiễn giao lưu dân sự chưa được pháp luật quy định và cần được
pháp luật điều chỉnh
3.1. Về Huỷ bỏ hợp đồng dân
sự:
Khoản 1 - Điều 425 BLDS 2005
quy định: “Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt
hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận
hoặc pháp luật có quy định”. Tiếp đó, Khoản 1 - Điều 426 quy định: “Một bên
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có thoả thuận
hoặc pháp luật có quy định”. Như vậy, khi một bên vi phạm hợp đồng, bên kia
có quyền yêu cầu đình chỉ hay hủy bỏ hợp đồng khi vi phạm hợp đồng là điều
kiện đình chỉ hay hủy bỏ “mà các bên đã thỏa thuận” hoặc “pháp luật có
quy định”.
Nghiên cứu các quy định về
các hợp đồng cụ thể trong BLDS - đặc biệt là hợp đồng mua bán - thì không có
điều, khoản nào quy định về hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng (ngoại trừ Điều 494 “Quyền
của bên cho thuê nhà ở”). Theo Khoản 1 - Điều 425 thì nếu các bên không
có các thỏa thuận trước về điều kiện hủy bỏ thì hợp đồng không thể bị hủy bỏ.
Quy định như vậy là bất hợp lý, không bảo vệ được quyền lợi của bên nghiêm
túc thực hiện hợp đồng và dung túng cho sự vi phạm của một bên khi pháp luật
không có cơ chế bảo vệ hữu hiệu. Trên thực tế các tranh chấp liên quan đến
hợp đồng mua bán tài sản, nhất là mua bán nhà và một bên yêu cầu hủy hợp đồng
do bên kia vi phạm nghĩa vụ dân sự (thường là nghĩa vụ trả tiền) không phải
là hiếm. Và, tòa án vẫn chấp nhận hủy hợp đồng nếu một bên không có thỏa
thuận trước về điều này khi giao kết hợp đồng.
3.2. Về hợp đồng ủy quyền:
BLDS năm 2005 (chương XVIII,
mục 12 Hợp đồng ủy quyền, từ Điều 581 đến Điều 589) không có điều luật nào
quy định về hình thức của hợp đồng uỷ quyền. So sánh với BLDS năm 1995, có
Điều 586 quy định về hình thức của hợp đồng ủy quyền như sau: “Hợp đồng ủy
quyền phải được lập thành văn bản; nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định, thì hợp đồng ủy quyền phải có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc
chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền”. Qua thực tế xét
xử các vụ án dân sự khi có ủy quyền, Tòa án vẫn phải đòi hỏi các hợp đồng ủy
quyền phải có công chứng hoặc xác nhận của chính quyền địa phương để đảm bảo
giá trị pháp lý của hợp đồng ủy quyền mặc dù BLDS 2005 không quy định.
3.3. Về Thời hiệu khởi kiện
về thừa kế:
+ Điều 645 BLDS 2005 quy
định: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận
quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm,
kể từ thời điểm mở thừa kế”. Tuy nhiên, BLDS 2005 lại không có điều luật
nào quy định đối với phần di sản đã hết thời hiệu khởi kiện thì giải quyết
như thế nào, thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ai ? Thực tế, có nhiều trường
hợp khi đương sự khởi kiện thừa kế, Tòa án phải trả lại đơn với lý do đã hết
thời hiệu khởi kiện. Khi người dân đi đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng
đất thì cơ quan chức năng yêu cầu phải có sự đồng ý của tất cả các đồng thừa
kế hoặc bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án giao quyền sở hữu, sử dụng
cho họ. Như vậy, vô tình các quy định pháp luật làm cho người dân rơi vào
tình cảnh không thể có quyền sở hữu, sử dụng di sản thừa kế mà lẽ ra họ có
thể được hưởng quyền này.
+ Mặt khác, quy định thời
hiệu mười năm trong điều luật này là quá ngắn. Hầu hết người Việt Nam không
có thói quen chia di sản ngay sau khi người thân chết, nhất là khi một bên
cha hoặc mẹ vẫn còn sống. Chính vì thực tế này mà dường như có xu hướng hạn
chế việc xem xét hết thời hiệu (hay hậu quả của việc hết thời hiệu), nhằm cho
phép các thừa kế vẫn còn khả năng chia di sản của người thân để lại. Ví dụ:
Ngày 10/8/2004, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết
02/2004/NQ-HĐTP về Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Theo đó: “Trường
hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế
không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa
kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh
chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia
thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế”. Tuy nhiên,
việc thực hiện hướng dẫn này trên thực tế cũng không đơn giản. Vì, trong
những vụ án cụ thể luôn có những quan điểm khác nhau về việc có đủ điều kiện
để áp dụng Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP để di sản thừa kế trở thành tài sản
chung hay không. Và, Tòa án thay vì giải quyết tranh chấp về thừa kế thì giải
quyết tranh chấp chia tài sản chung.
III. NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Từ những bất cập, hạn chế nêu
trên của BLDS 2005, chúng tôi có những đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ
sung một số điều trong BLDS, cụ thể như sau:
1- Điều 60: Đề nghị bổ sung
thêm điều kiện: Quyền lợi của người giám hộ và người được giám hộ không mâu
thuẫn nhau.
2- Điều 62:
- Khoản 1: Nên quy định là
cha, mẹ, hoặc con đã thành niên của người mất năng lực hành vi dân sự là
người giám hộ đương nhiên hoặc là giám hộ cử.
- Khoản 2: Nên sửa lại là
người con trực tiếp nuôi dưỡng cha mẹ là người giám hộ đương nhiên của cha,
mẹ mất năng lực hành vi dân sự.
3- Điều 63: Luật cần quy
định cụ thể hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm của chính quyền cơ sở phải thực hiện
việc cử người giám hộ theo yêu cầu của Tòa án.
4- Điều 122: Đề
nghị để giao dịch có hiệu lực thì về mặt chủ thể, cần quy
định chủ thể của giao dịch dân sự có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với
phạm vi nội dung của giao dịch và người trực tiếp thực hiện giao dịch nhân
danh chính mình hoặc có đủ thẩm quyền để đại diện cho chủ thể của giao dịch; nội dung và mục
đích của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội và có thể thực hiện
được; giao dịch
phải được tiến hành trên cơ sở tự nguyện, tự định đoạt ý chí của chủ thể và
các bên phải tiến hành giao dịch với sự thiện chí, trung thực.
5- Điều 127: Đề nghị nên bỏ
quy định này.
6- Điều 134: Đề nghị
BLDS không nên coi hình thức bắt buộc là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch mà chỉ là yếu tố để đảm bảo tính an toàn pháp lý cho giao
dịch. Khi Tòa án đã yêu cầu các bên hoàn
thiện về mặt hình thức giao dịch dân sự - nếu một trong các bên (trong hợp
đồng) vẫn cố tình không thực hiện thì cần phải coi là giao dịch đó có hiệu
lực.
7- Điều 136: Đề nghị không
nên quy định về thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu mà nên đưa loại
thời hiệu yêu cầu đòi quyền lợi, thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự
vào Phần Quy định chung về Thời hiệu.
8- Điều 137: Đề nghị bổ sung quy
định về giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu: Nếu không
hoàn trả được bằng hiện vật mà hoàn trả bằng tiền thì tính theo giá trị của
vật tại thời điểm hoàn trả. Trong trường hợp tài sản mà các bên chuyển giao có phát
sinh hoa lợi, lợi tức: nếu hoa lợi, lợi tức phát sinh một cách tự nhiên thì
phải trả lại cùng với tài sản và người trả lại được thanh toán chi phí quản
lý. Nếu hoa lợi, lợi tức hoàn toàn do kết quả của sáng kiến và công sức lao
động của bên quản lý tài sản thì người quản lý tài sản không phải chuyển giao
lại cùng với tài sản, nhưng phải thanh toán chi phí sử dụng tài sản cho bên
kia. Đồng
thời, cần có quy định những trường hợp giao dịch vô hiệu tương đối: là những trường hợp không
tuân thủ đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch nhưng không bị vô
hiệu.
9- Điều 305:
+ Khoản 2: Đề nghị BLDS nên quy
định trách nhiệm nếu chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì phải trả lãi suất
quá hạn theo hợp đồng đã ký kết.
+ Mặt khác, để tránh sự
không rõ ràng cũng như khắc phục các điểm không rõ của điều 305, thì trách
nhiệm dân sự trong trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ cần được quy định lại
theo hướng bên chậm thực hiện nghĩa vụ gây thiệt hại thì phải bồi thường
thiệt hại. Tiền lãi không cần quy định riêng trong một khoản mà nên coi là
thiệt hại nói chung. Việc sửa đổi theo hướng này đồng thời cũng đòi hỏi BLDS
phải có quy định rõ ràng, cụ thể và hợp lý hơn về cách tính thiệt hại.
10- Khoản 1 - Điều 425: Đề
nghị BLDS 2005 nên bổ sung quy định về hủy bỏ hay đình chỉ hợp đồng bị vi
phạm khi việc vi phạm đó ảnh hưởng lớn đến hợp đồng, ngay cả khi các bên không
có thỏa thuận và pháp luật không có quy định khi bên kia vi phạm nghiêm trọng
hợp đồng.
11- Về hợp đồng ủy quyền: Đề
nghị BLDS cần có quy định về hình thức của hợp đồng ủy quyền như BLDS 1995.
12- Điều 474: Đề nghị BLDS
quy định rõ: cho dù hợp đồng vay thỏa thuận không có lãi, nhưng khi bên vay
đã vi phạm hợp đồng và có tranh chấp, nếu bên cho vay yêu cầu tính lãi
thì phải đáp ứng yêu cầu này để đảm bảo quyền lợi của người cho vay.
13- Điều 476: Tòa án nhân dân
tối cao đã có hướng dẫn việc tính lãi và cả lãi suất nợ quá hạn đối với các
khoản vay của tổ chức tín dụng, ngân hàng là phải căn cứ theo đúng hợp đồng
đã ký kết và thời gian được tính kể từ khi giao dịch đến khi thi hành án
xong. Theo Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, việc Tòa án nhân dân tối cao quy
định như vậy là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn. Để đảm bảo quyền
lợi của các tổ chức, cá nhân trong các quan hệ cho vay, đồng thời thực hiện
mục tiêu chống cho vay nặng lãi, đề nghị BLDS cần có quy định cụ thể như
trên để quá trình áp dụng luật được thống nhất và đồng bộ.
14- Điều 642: Đề nghị BLDS
2005 nên xem xét bỏ điều luật này.
15- Điều 645: Đề nghị
BLDS bổ sung thêm điều luật quy định đối với phần di sản hết thời hiệu
khởi kiện thì thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người đang quản lý, sử dụng di sản
thừa kế. .Đồng thời kéo dài thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đến 15 năm
hoặc 20 năm để phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam.
16- Khoản
5 - Điều 652: Đề nghị BLDS cần có quy định cụ thể ai là người
đưa di chúc đi công chứng (hai người làm chứng hoặc người được hưởng di sản
thừa kế).
17- Khoản 2 - Điều 664: Đề
nghị nên quy định: “… Nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa
đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình mà không trái với
nguyện vọng, ý chí của người đã chết lúc còn sống”.
18- Điều 668: Đề nghị BLDS
quy định “Về Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng” trở lại
nguyên như Điều 671 - BLDS 1995.
19- Bên cạnh đó, vẫn còn có
một số vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn giao lưu dân sự hiện chưa được
điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có được
coi là tài sản hay không; Quan hệ giao kết hợp đồng có yếu tố nước ngoài chưa
được điều chỉnh một cách cụ thể; Quan hệ thừa kế phát sinh khi thai nhi hình
thành trước khi người để lại di sản chết; Các loại hợp đồng thông dụng phát
sinh như: hợp đồng cung cấp điện năng, nước, điện thoại; Hợp đồng mua bán
hoặc cho thuê doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh; Hợp đồng cho thuê tài chính;
Hợp đồng kỹ thuật; Các hợp đồng liên quan đến hoạt động ngân hàng; Hợp đồng
liên doanh, liên kết kinh tế; Vấn đề nợ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…
Trên thực tế những vấn đề nêu trên đã được các đương sự giao dịch. Do đó, khi
phát sinh tranh chấp thì các cơ quan pháp luật lúng túng trong quá trình giải
quyết vì chưa được pháp luật quy định.
(Theo toaan.gov.vn)
|
Kết Luận
Sau quá trình nghiên cứu ta nhận thấy chế
định thừa kế là một chế định quan trọng trong
hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam..
Quyền
để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn
được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm,theo dõi và bảo hộ.Việt Nam
là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống
đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó đối với người Việt
Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm cha con, vợ
chồng, anh em gắn bó keo sơn…đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo
quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có
những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những
bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật
phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có.
Do đó,việc nghiên cứu các chế định về thừa kế nhằm nắm bắt được thực trạng của
chế định này trong xã hội đồng thời có các biện pháp hoàn thiện là rất cần
thiết, để mọi công dân điều được đảm bảo quyền lợi công bằng trong các mối quan
hệ về tài sản nói chung và quyền thừa kế nói riêng....hướng đến công bằng ổn
định xã hội...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét