NHẬN
XÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1.
Những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa tới sự phát triển bền vững
ở Việt Nam
Ngày nay,
cụm từ toàn cầu hóa không còn xa lạ với chúng ta. Nó đã trở nên quen thuộc
thông qua nhiều bài báo, tạp chí, sách nghiên cứu, các cuộc hội thảo khoa học.
Người ta coi thế giới giờ gần như đã bị làm phẳng, theo xu thế đó, các quốc gia
kém phát triển sẽ có những cơ hội phát triển tốt hơn, sẽ bắt kịp với tốc độ
phát triển các quốc gia khác.
Nhưng sự thực có phải mọi quốc gia mở cửa mạnh mẽ, hội nhập sâu
rộng, gắn kết chặt chẽ, đều sẽ hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hóa? Toàn cầu
hóa liệu có là phép mầu để biến một quốc gia từ đang phát triển trở thành một
con rồng vươn mình bay lên? Ở đây, bài viết xin chủ yếu đánh giá những tác động
quá của quá trình toàn cầu hóa trên hai lĩnh vực phổ bến là thương mại và đầu
tư.
Mới đây khi tổng kết về kinh nghiệm ở 13 quốc gia được coi là tăng
trưởng bền vững trong thời gian qua (7% trong vòng 25 năm kể từ năm 1950), Uỷ
ban Phát triển và Tăng trưởng của Ngân hàng Thế giới có đưa ra 5 nguyên nhân
chung các quốc gia này có được: Bộ máy hành chính tận tụy, hội nhập kinh tế thế
giới, đầu tư và tiết kiệm cao, môi trường và sử dụng năng lượng, mối liên hệ
nông thôn và thành thị. Như vậy, dường như hội nhập kinh tế thế giới, tham gia
quá trình toàn cầu hóa là tất yếu để phát triển bền vững. Chúng ta hãy thử suy
nghĩ theo một chiều hướng khác.
Mahathir Mohamad – Nguyên Thủ tướng Malaysia, một người có nhiều
nghiên cứu về vấn đề tác động toàn cầu hóa đến các quốc gia thế giới thứ ba, đã
từng nhận xét: “… trong tiến trình toàn cầu hoá như đang được quảng bá, thực
hiện và thúc ép lên chúng ta, có những kẻ thắng lớn và những người thua to, và
khuôn mẫu cơ bản của kẻ thắng, người thua khong hề thay đổi – và không công
bằng; vì kẻ thắng luôn là những nước giàu và người thua luôn là những nước
nghèo.” [2, 11]
1. Thương mại toàn cầu
Trong các lý thuyết thương mại quốc tế, các nhà kinh tế cho rằng
các quốc gia có lợi thế riêng của mình, nếu tập trung phát huy lợi thế đó và
trao đổi lấy những mặt hàng bất lợi thế của mình với các quốc gia khác sẽ mang
lại lợi ích cao hơn cho các bên tham gia. Vì vậy, cần mở cửa rộng rãi, để đón
nhận luồng hàng hóa từ các quốc gia khác. Thực sự, nếu hai bên tham gia với một
vị thế bình đẳng thì có thể lý thuyết này thật hoàn hảo. Nhưng trên thực tế,
các nước giàu, phát triển luôn luôn rêu rao thương mại bình đẳng, tự do hóa
thương mại, nhưng chính các quốc gia này đang duy trì sự bất bình đẳng đó.
Trong hội nghị chính sách đối với các nền kinh tế chuyển đổi, tổ
chức tại Hà Nội năm 2004, Alan Deardorff, Giáo sư kinh tế quốc tế, Đại học
Michigan – Mỹ, phát biểu: “Hiệp định thương mại song phương thường đưa đến
những thỏa thuận rất không tương xứng giữa các nước nhỏ với Mỹ hoặc châu Âu.
Trong loại hiệp định này, các nước lớn hay các khối thương mại như EU có xu
hướng giành lợi thế về mình chứ không phải lúc nào cũng vì lợi ích của các nước
đối tác. Các hiệp định song phương không phải là thương mại tự do xét trên khía
cạnh như là thành quả truyền thống của thương mại. Chúng là những thỏa thuận
phân biệt đối xử hoặc ưu đãi giữa một số nước với các nước khác trên thế giới.”
[1, 91]
VN hiện nay vẫn hơn 70% dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn mà
lĩnh vực sản xuất chính là nông nghiệp. Trong cơ cấu xuất khẩu, những mặt hàng
chủ yếu của chúng ta chiếm tỷ trọng không nhỏ vẫn là những mặt hàng nông phẩm
(Thủy sản, Gạo, cà phê, tiêu, điều, cao su, rau quả…). Các sản phẩm này khi
xuất khẩu hầu hết dưới dạng thô và sơ chế, giá trị thu được rất thấp. Bên cạnh
đó, những mặt hàng này vấp phải những hàng rào hàng bảo hộ gay gắt từ nước
ngoài. Khi chúng ta gia nhập WTO, một sân chơi được cho là bình đẳng, tự do,
các hàng hóa là lợi thế các quốc gia sẽ được trao đổi, mua bán thuận lợi. Lật
lại lịch sử khi ra đời 1995, WTO đã phớt lờ những vấn đề các nước đang phát
triển bức xúc nhất là nông nghiệp. Mỹ và Liên minh châu Âu vẫn duy trì một chế
độ bảo hộ dưới dạng trợ cấp nông nghiệp ở mức cao (khoảng 300 tỷ USD/năm) khiến
cho giá trị nông sản xuất khẩu của họ thấp hơn mức giá sản xuất ở các quốc gia
đang phát triển.
Hội nghị Seattle năm 1999 đánh dấu một bước ngoặt: lần đầu tiên,
các nước đang phát triển đã đương đầu với các nước phát triển và bác bỏ đề xuất
của họ mở ra một v.ng đàm phán mới về tự do hoá thương mại (mang tên vòng Thiên
niên kỷ). Trong khi đó, bên ngoài hội nghị, các tổ chức của xã hội dân sự thế
giới xuống đường biểu tình ồ ạt, phản kháng WTO. Thông qua tại hội nghị Doha
năm 2001, tuyên bố khai mạc của vòng đàm phán “về phát triển” xác định “đặt nhu
cầu và lợi ích của các nước đang phát triển vào trung tâm chương tr.nh làm
việc”, và “thương mại quốc tế có thể giữ vai trò to lớn trong việc đẩy mạnh
phát triển kinh tế và giảm bớt đói nghèo”. Dù đặt chữ ký dưới bản tuyên bố này,
nhiều nước phía Nam tỏ ra hoài nghi lời hứa của phía Bắc, và họ đã có lý. Một
lần nữa, các nước phát triển nuốt lời cam kết của họ, trước tiên trong hồ sơ
nông nghiệp. Năm 2002, Mỹ ra đạo luật tăng trợ cấp cho nông nghiệp lên gấp đôi.
Đưa ra ra cùng năm đó, cuộc cải cách chính sách nông nghiệp chung của Liên hiệp
châu Âu hoá ra chỉ là thay đổi hình thái, màu mè của những trợ cấp trước đây
(chuyển trợ cấp nông sản thành trợ cấp nông dân).
Gia nhập WTO, VN đã buộc phải cam kết thêm nhiều điều khác: bãi bỏ
ngay mọi trợ cấp trong xuất khẩu nông sản (các nước thành viên khác đến năm
2013 mới cắt giảm); từ bỏ quyền sử dụng biện pháp tự vệ trong nông nghiệp (các
nước thành viên khác vẫn giữ quyền đó).
Các quốc gia phát triển luôn đưa ra “củ cà rốt” mở cửa thị trường,
đẩy mạnh đầu tư, chuyển giao công nghệ, nhưng thực tế khi quyền lợi bị xâm hại
họ sẵn sàng đập “cây gậy” chống bán phá giá, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm
tiêu chuẩn kỹ thuật một cách vô lý lên đầu bất cứ quốc gia nào mà họ cho là vi
phạm (Điển hình như vụ kiện chống bán phá giá cá basa của VN). Điều trớ trêu là
những đối tượng trực tiếp chịu những “cú đánh” này lại là những người nông dân
nghèo, những người vốn dĩ cuộc sống đã phải chịu quá nhiều khó khăn.
Bên cạnh tác động tiêu cực về cạnh tranh bất bình đẳng, thương mại
quốc tế còn đem lại cho các quốc gia đang phát triển “nguồn tài nguyên dồi dào”
– rác thải. Những thứ mà các quốc gia phát triển thải ra: rác thải công nghiệp,
y tế, sinh hoạt… việc tái chế hay tiêu hủy trở nên đắt đỏ và ô nhiễm. Vì vậy,
có xu thế xuất khẩu những thứ này sang các quốc gia đang phát triển trong đó có
VN, biến những nơi này thành bãi rác, nơi tái chế và vùng ô nhiễm khổng lồ.
Chúng ta cảm tưởng những chiếc ô tô, ti vi, hay các máy móc được bán sang VN
với giá rẻ đó là một sự “cảm thông” của các quốc gia phát triển với những nước
nghèo. Sự thực là các quốc gia đang phát triển khó có thể nào chống lại các
luồng hàng hóa như vậy. Trong các hiệp định về tự do hóa thương mại, việc sử
dụng hàng rào bảo hộ kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn, còn áp dụng hàng rào kỹ
thuật các quốc gia đang phát triển lại không có lợi thế do trình độ công nghệ
thấp ở các quốc gia này.
2. Đầu tư quốc tế
Ngày nay, các luồng tiền đầu tư không còn giới hạn số lượng, biên
giới, thời gian, vấn đề chỉ là suất sinh lời trên vốn cao. Và hàng ngày, các
nước phát triển vẫn luôn rao giảng mở cửa, mở cửa hơn nữa, chúng tôi đem tiền
cho các anh tại sao lại đóng. Cái chúng tôi đem lại là vốn, công ăn việc làm,
giải quyết những vấn đề xã hội, và bao nhiêu điều tốt đẹp, vì thế đừng giới hạn
đầu tư.
Ở đây, không thể phủ nhận những mặt tích cực mà đầu tư nước ngoài
mang lại cho một quốc gia –điều này đã được nhiều công trình nghiên cứu nêu ra.
Nhưng xét một khía cạnh khác, đặc biệt nhìn dưới góc độ tính bền vững trong
phát triển kinh tế, đầu tư quốc tế có những điểm cần quan tâm.
Thứ nhất, Luồng tiền đầu tư có từ nhiều nguồn trong đó có cả từ những
tập đoàn tư bản lớn mà vốn, công nghệ, trình độ quản lý đã đạt mức cao. Với
những điều kiện đó, khi các tập đoàn này vào, họ có thể sử dụng nhiều biện pháp
thậm chí mang tính “thanh toán”. Gần như các doanh nghiệp trong nước rất khó
khăn trong việc cạnh tranh, hoặc phải chấp nhận làm các công ty con cho những
tập đoàn này. Một dẫn chứng kinh điển là trường hợp một tập đoàn nước ngọt hàng
đầu thế giới đã chịu lỗ nhiều năm liền để có thể thâu tóm vốn sở hữu và chiếm lĩnh thị phần ở
VN – đây là một bài học mà cho tới này vẫn còn nguyên tính thời sự. Chúng ta
thử suy nghĩ, nếu thị trường trong nước chịu sự kiểm soát phần lớn từ các tập
đoàn đầu tư nước ngoài, khi có một trục trặc xảy ra (ví dụ như: khủng hoảng,
suy thoái, hay động cơ chính trị…), các tập đoàn này đồng loạt rút chân, một
lượng lớn lao động thất nghiệp, các ngành sản xuất ngưng trệ, hàng hóa không
thể tự túc được, nền kinh tế sẽ càng rơi xuống đáy tiêu điều.
Thứ hai, nhiều lĩnh vực được các nhà đầu tư nước ngoài chuyển sang
các nước đang phát triển, đang dần hủy hoại môi trường ở những quốc gia này và
tất nhiên trong đó có VN. Với những hàng rào về môi trường nghiêm ngặt ở quốc
gia mình, nhiều doanh nghiệp ở các nước phát triển khó có thể sản xuất, kinh
doanh với công nghệ hiện có, và họ nghĩ ra nơi đầu tư lý tưởng đó là các nước
đang phát triển – nơi mà đang chú trọng thu hút nguồn vốn đầu tư nên vấn đề môi
trường không kiểm soát chặt chẽ.
Một cách khôn ngoan, họ – các nước phát triển cho rằng thật là tốt
biết bao khi một nước đang phát triển vươn lên thành “cường quốc” trong ngành
công nghiệp nào đó. Thông qua đầu tư, hợp tác quốc tế, điều tuyệt vời này có
thể trở thành sự thật.
Cuối năm 2007, VN được xếp hạng 6 thế giới về đóng tàu thủy, đây
quả thực là một kết quả đáng tự hào. Nhưng tại sao các quốc gia đóng tàu nổi
tiếng thế giới trong lịch sử điển hình như Anh lại không tập trung phát triển
ngành này nữa?
Thật ra, chúng ta vẫn chỉ được coi như “làm thuê” khi tỷ lệ nội
địa hóa khoảng 30% và đó hầu hết là những chi tiết, công đoạn có mức độ ô nhiễm
môi trường rất lớn.
Thứ ba, một khía cạnh không thể không nhắc tới về ảnh hưởng của đầu
tư quốc tế là đầu tư tài chính. Với xu thế toàn cầu hóa, một nhà đầu tư không
cần phải cất công lặn lội đường xá xa xôi để đem nguồn tiền đi sinh lời. Họ có
thể ngồi tại New York, Paris, Tokyo hay London để chi phối hoạt động tài chính
ở cách đó nửa vòng trái đất. Các luồng vốn tài chính đổ vào các quốc gia dưới
dạng đầu tư chứng khoán, bất động sản trong một thời điểm nó có thể đẩy các thị
trường này phát triển rất nhanh. Nhưng khi thấy đã “đút túi” được một khoản
lớn, các nhà đầu tư nước ngoài lại có động thái rút vốn khiến thị trường rơi
vào tình trạng suy thoái, nhiều doanh nghiệp phá sản, đời sống nhiều người dân
rơi vào tình trạng khó khăn. Đây là bài học lớn rút ra từ cuộc khủng hoảng tài
chính lớn ở Đông Nam Á năm 1997. Dường như điều này vẫn liên tục lặp lại ở các
thị trường mới nổi khi các nhà đầu tư nước ngoài vẫn luôn ra sức kêu gọi mở thị
trường để rộng đường họ chi phối. Cuối năm 2006, đầu năm 2007, thị trường chứng
khoán VN thực sự sôi động khi giá cổ phiếu được đẩy lên cao hàng ngày, thu hút
nhiều nhà đầu tư lên sàn. Từ những người am hiểu kinh tế, tài chính đến người
không biết gì nhiều, trí thức, công nhân, sinh viên và cả những bác nông dân
bán đất để lên sàn, thậm chí họ mua mà còn không biết rõ mã cổ phiếu mình mua
của công ty nào. Tất nhiên, điều này làm cho thị trường phát triển quá mức và
quả bong bóng tài chính có thể nổ bất cứ lúc nào. Khi chính phủ thực hiện chính
sách thắt chặt tiền tệ để đẩy lùi nguy cơ lạm phát, các nhà đầu tư nước ngoài
rút tiền hàng loạt và thị trường chứng khoán đi xuống một cách nhanh chóng.
Nhiều nhà đầu tư từ chỗ tỉ phú, triệu phú lâm vào cảnh trắng tay thậm chí trở
thành con nợ.
Thứ tư, việc thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra sự
cạnh tranh giữa các địa phương trong việc xây dựng các khu công nghiệp. Quỹ đất
để xây những khu công nghiệp này lẽ dĩ nhiên là lấy từ nông nghiệp. Khi không
có quy hoạch hợp lý và tính toán dài hạn, hàng loạt người nông dân mất đất,
trong tay không có nghề nghiệp, nhiều người tuổi tác không phù hợp để chuyển
đổi công việc, cuộc sống họ vốn đã khó khăn, bấp bênh nay càng khó khăn hơn.
Nhiều người cầm một đống tiền đền bù nhưng không biết phải làm gì, và những vấn
đề xã hội cũng kéo theo đó gia tăng: thất nghiệp, cờ bạc, nghiện hút…
Khái niệm phát triển bền vững được đề cập và phổ biến rộng rãi từ
năm 1987 từ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Tương lai chung của chúng
ta) của Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED) nay là Uỷ ban
Brundtland. Báo cáo ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể
đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả
năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai…", hay nói cách khác, phát
triển bền vững phải bảo đảm sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và
môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần
kinh tế – xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội… phải bắt tay nhau thực
hiện nhằm mục đích dung hoà ba lĩnh vực chính: kinh tế, xã hội, môi trường.
Xét trên những tiêu chí trên, có thể thấy xu thế toàn cầu hóa có
những tác động tiêu cực không nhỏ tới sự phát triển bền vững ở quốc gia đang
phát triển như VN trên cả bình diện kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, VN
trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới cần chú ý tới những tác động
này. Thực chất đây là “mặt đối lập” của những thuận lợi mà toàn cầu hóa mang
lại cho các quốc gia. Chúng ta không thể tách mình khỏi xu thế này nhưng chúng
ta cần một chiến lược hội nhập bền vững, phát triển kinh tế nhưng phải đánh giá
và có những giải pháp phù hợp cho vấn đề môi trường và xã hội.
2.Một số kết quả tích cực như sau:
Thứ nhất, việc gia nhập WTO đã
góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị,
ngoại giao,... Các đối tác kinh tế, thương mại đánh giá Việt Nam như là một đối
tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực Ðông - Nam Á. Vai trò của nước ta
trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng
được nâng cao. Ðặc biệt, việc trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo
an LHQ nhiệm kỳ 2008 - 2009 đã chứng tỏ uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt
Nam.
Thứ hai, việc điều chỉnh thể
chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý, xóa bỏ các rào cản và nâng cao
tính minh bạch trong chính sách kinh tế, thương mại, cải thiện môi trường kinh
doanh đã làm tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn. Mặc dù
chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ toàn cầu, nhưng GDP năm 2008
của nước ta vẫn tăng trưởng ở mức 6,23%, xuất khẩu vẫn bảo đảm nhịp độ tăng
trưởng khá: Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9% so
với năm 2006; Năm 2008, dù đa số các thị trường lớn rơi vào suy thoái nhưng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất đáng khích lệ, ước tính đạt khoảng 63 tỷ
USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã đa dạng
hơn và hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị
trường lớn như Hoa Kỳ, EU,...
Thứ ba, do việc điều chỉnh
chính sách kinh tế theo các cam kết quốc tế, môi trường kinh doanh và đầu tư
trở nên thông thoáng và minh bạch hơn, dẫn đến việc gia tăng luồng vốn
FDI vào Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam đã thu hút trên 20,3 tỷ USD, tăng
69,2% so với năm 2006. Sang năm 2008, dù tình hình kinh tế thế giới xấu đi,
nhưng vốn FDI cam kết đã đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần ba lần năm 2007. Ðiều này
phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào tiến trình hội nhập, mở cửa
thị trường, cũng như vào triển vọng và tiềm năng phát triển kinh tế của Việt
Nam, tin tưởng vào sự ổn định chính trị, xã hội và những quyết sách tích cực và
hiệu quả của Chính phủ Việt Nam trong việc đối phó với cơn khủng hoảng tài
chính hiện nay.
Thứ tư, việc mở cửa thị trường
dịch vụ theo cam kết WTO góp phần phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nâng cao
trình độ công nghệ cho các nhà sản xuất, dẫn tới việc tăng cường thu hút đầu tư
nước ngoài. Mặt khác, thông qua việc liên doanh, hợp tác với nước ngoài, các
doanh nghiệp Việt Nam cũng được tăng cường thêm về vốn, trình độ quản lý, nhân
sự và phát triển công nghệ.
Thứ năm, ngành công nghiệp Việt
Nam đã phát triển theo hướng tích cực, sản xuất công nghiệp đạt năng suất tương
đối cao: Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 574 nghìn tỷ đồng, tăng
17,1% so với 2006; Năm 2008 ước đạt 650 nghìn tỷ đồng tăng 14,6% so với năm
2007; Các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động như thủy sản, may mặc, giày
dép, đồ nội thất, thủ công cũng có tốc độ tăng trưởng cao.
Hai năm gia nhập WTO càng làm
rõ thêm những thời cơ và thách thức mà Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành
Trung ương Ðảng khóa X đã chỉ ra, đặc biệt là những tác động không thuận đối
với nước ta do những biến động của nền kinh tế thế giới. Bước vào năm 2009,
Chính phủ đã đề ra năm nhóm giải pháp để ngăn chặn và đẩy lùi suy giảm kinh tế,
trong đó biện pháp quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh và xuất
khẩu. Việc thực hiện cam kết với WTO và điều chỉnh chính sách theo các cam kết
quốc tế phải bám sát và hỗ trợ những nhiệm vụ cấp bách mà Chính phủ đã đề ra.
3.Đề xuất trong thời gian tới
Trong thời gian tới,chúng ta
cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục thay đổi
một cách sâu sắc nhận thức và tư duy trong xây dựng chính sách và điều hành
quản lý nhà nước theo hướng từ trực tiếp, hành chính, mệnh lệnh sang gián tiếp
thông qua việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chí và các đòn bẩy
kinh tế.
Thứ hai, để góp phần ổn định
kinh tế vĩ mô, cần áp dụng các chính sách để hạn chế nhập siêu và thâm hụt
thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích việc sử dụng
hàng hóa sản xuất trong nước.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế trên cả ba cấp độ nhà nước, doanh nghiệp và
ngành hàng. Phát huy nội lực, bảo vệ thị trường trong nước, xây dựng chiến lược
và quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh vận
động các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, tham gia tích cực
vào vòng đàm phán Ðô-ha, tiếp tục thực thi đầy đủ các cam kết gia nhập WTO, tận
dụng tốt những quyền lợi mà thành viên WTO được hưởng, xử lý hài hòa, thống
nhất mối quan hệ giữa cam kết gia nhập WTO với khuôn khổ pháp lý hiện hành, tạo
nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Thứ năm, thực hiện chính sách
phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và
phát triển bền vững; xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách an sinh xã
hội, giảm khoảng cách giàu - nghèo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ sáu, các bộ, ngành và các
địa phương cần nâng cao chất lượng nội dung các Chương trình hành động sau khi
gia nhập WTO, xác định rõ nguồn lực cần thiết để bảo đảm cho việc triển khai
thực hiện những nhiệm vụ đề ra; xử lý hài hòa các vấn đề có tính chất liên
ngành, liên vùng như chiến lược, quy hoạch phát triển của địa phương, bảo đảm
hiệu quả đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng; bảo vệ môi trường sinh thái,...; xây
dựng thể chế và cơ chế theo dõi, kiểm tra, giám sát, đánh giá và điều chỉnh
việc triển khai Chương trình hành động của Chính phủ và các chương trình hành
động của bộ, ngành và địa phương sao cho thiết thực, hiệu quả và phù hợp với
thực tế của bộ, ngành và địa phương.
Thứ bảy, tăng cường công tác
đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ quản lý, công chức, viên chức, các doanh
nhân và người lao động, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Tiếp tục phát huy tinh thần độc
lập, tự chủ, tự cường, với phương châm chủ động, hiệu quả và linh hoạt, phát
huy những thành tựu đã đạt được trong hai năm qua, chúng ta tự tin và năng động
vượt qua mọi thách thức, phấn đấu giành những thắng lợi mới trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việt Nam trong xu hướng phát triển
thương mại quốc tế ngày nay
Đẩy mạnh phát triển thương mại và dịch vụ
quốc tế là xu hướng tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, nhất là các nước
đã phát triển; do năng lực sản xuất ngày càng lớn, cho nên luôn luôn ở tình trạng
thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất. Hoạt động thương mại quốc tế
ngày càng mở rộng và cạnh tranh thị trường thế giới ngày càng gay gắt là tất yếu.
I.
Xu hướng phát triển thương mại quốc tế ngày nay
Các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn
hay nhỏ, sớm hay muộn đều đi theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào quá
trình hợp tác kinh tế khu vực và thế giới, đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực,
trong đó thương mại là một trong những lĩnh vực được coi là trọng tâm. Đặc điểm
nổi bật về xu hướng phát triển thương mại quốc tế ngày nay là:
1. Nội dung hoạt động thương mại rộng lớn
mang tính quốc tế, chi phối hầu hết các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội. Do
đó, thương mại ngày nay không chỉ là những hoạt động mua bán sản phẩm hàng hóa
vật thể mà còn bao gồm cả những hành vi mua bán và dịch vụ phi vật thể, tất cả
đều nhằm thu lợi nhuận.
2. Hình thành các loại hình công ty, tập
đoàn lớn, công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia, với phạm vi hoạt động không biên
giới và hình thành các tổ chức, hiệp hội thương mại khu vực và toàn cầu. Phạm
vi tác động của thương mại quốc tế ngày nay mang ý nghĩa vô cùng sâu rộng, bao
gồm nhiều thành phần thương mại, nhiều thương nhân và hợp thành mạng lưới chằng
chịt các loại hình kinh doanh và dịch vụ; vừa liên doanh, liên kết, vừa tự do
hoá, vừa độc quyền, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, vừa bình đẳng và không bình đẳng
trong kinh doanh, đều cùng nhau tham gia hoạt động mua bán và dịch vụ trên thị
trường, trên cơ sở hành lang pháp luật quốc gia và luật lệ quốc tế.
3. Xu thế liên doanh liên kết thương mại
song phương, đa phương, bình đẳng ngày càng mở rộng và không ngừng phát triển.
Đặc điểm kinh doanh thương mại ngày nay gồm hai chiều hướng: Một là, kinh doanh
chuyên ngành, theo một sản phẩm hay một thương hiệu nhất định thành một hệ thống
trên toàn cầu. Hai là, tổ chức mô hình những công ty, tập đoàn kinh doanh tổng
hợp với nhiều loại hình, nhiều hàng hóa và dịch vụ khác nhau để nâng cao ưu thế
cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường khu vực và thị trường thế giới.
4. Tự động hóa, hiện đại hóa, áp dụng
công nghệ thông tin vào quản lý, mua bán qua mạng, hoạt động kinh doanh và dịch
vụ mang tính phổ biến và ngày càng phát triển.
5. Do cạnh tranh trên thị trường ngày
càng quyết liệt, thương mại không ngừng cải tiến phương thức phục vụ hiện đại
và luôn luôn đổi mới dịch vụ theo xu hướng lấy người tiêu dùng làm trọng tâm và
coi khách hàng như "thượng đế".
II.
Một số vấn đề đặt ra Việt nam cần quan tâm
Từ những đặc điểm trên đây của thương mại
trong thời đại ngày nay và đặc biệt là khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức
WTO, đặt ra cho nước ta một số vấn đề phải đặc biệt quan tâm trong quá trình
phát triển quan hệ thương mại quốc tế:
Một là, phải có chính sách thương mại
đúng đắn, phù hợp nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh thông qua quan hệ buôn
bán quốc tế để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường khu vực và thị trường thế giới
cho mình.
Lợi thế so sánh là những điều kiện và khả
năng thuận lợi (hoặc khó khăn) của một nước này so với nước khác trong việc sản
xuất cùng một loại sản phẩm hàng hóa hay kinh doanh và dịch vụ thương mại trong
những thời điểm nhất định, nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất cho mỗi quốc gia.
Lợi thế so sánh thương mại quốc tế bao gồm
ba loại: lợi thế so sánh tự nhiên vốn có, lợi thế so sánh nảy sinh do sự phát
triển của lực lượng sản xuất và lợi thế so sánh phát sinh do đổi mới chủ
trương, chính sách và cơ chế quản lý Nhà nước. Khi nói về lợi thế tuyệt đối,
A-đam Xmít, nhà kinh tế học cổ điển, cho rằng một nước chỉ nên sản xuất những
loại hàng hóa sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên sẵn có của họ để có lợi nhuận
cao nhất. Việc tiến hành trao đổi giữa các quốc gia phải tạo ra lợi ích cho cả
hai bên, nếu một quốc gia có lợi còn quốc gia khác bị thiệt thì họ sẽ từ chối
tham gia vào thương mại quốc tế.
Khi tham gia trao đổi mua bán thương mại
quốc tế, các quốc gia phải biết lựa chọn sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa
có lợi thế so sánh tốt nhất và nhập khẩu những hàng hóa mà mình sản xuất bất lợi
nhất. Đây cũng là một bài học mà chúng ta đã rút ra qua hơn 20 năm đổi mới nền
kinh tế. Một số sản phẩm của nước ta đang có lợi thế tuyệt đối trên thị trường
quốc tế cần phải đẩy mạnh xuất khẩu.
Hai là, lựa chọn mặt hàng và thị trường
có lợi nhất cho mình để phát triển và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế.
Trong quan hệ thương mại thế giới, cần
đa phương hóa, linh hoạt hoá thị trường, mở rộng buôn bán với nhiều nước. Song ở
giai đoạn trước mắt đối với nước ta kinh tế chưa phát triển cao, các điều kiện
về khoa học – kỹ thuật còn nhiều hạn chế, khả năng cạnh tranh còn yếu, cần lựa
chọn những mặt hàng có chất lượng cao xây dựng thành thương hiệu quốc tế và những
thị trường có khả năng và ưu thế riêng đối với mình để khai thác và tham gia xuất,
nhập khẩu buôn bán thương mại, dịch vụ, trên cơ sở đó từng bước giành chỗ đứng
trên thị trường thế giới.
Ba là, hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt
động thương mại cả ở thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Đây là vấn
đề hết sức cần thiết để phát triển lành mạnh thị trường trong nước làm cơ sở hậu
phương cho phát triển thị trường ngoài nước. Thị trường trong nước phát triển vững
chắc là điều kiện quan trọng để mở rộng thị trường ra ngoài nước, đẩy mạnh xuất
khẩu và chủ động nhập khẩu của nước ta, ngược lại thị trường ngoài nước được
phát triển sẽ tạo điều kiện thúc đẩy thị trường trong nước phát triển mạnh hơn,
phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống.
Bốn là, thực hiện tốt các cam kết với
WTO và các cam kết song phương khác về thương mại. Việc này chỉ có lợi cho ta,
một mặt chứng tỏ với thế giới rằng Việt Nam là nước làm ăn nghiêm chỉnh đúng luật,
đúng cam kết; mặt khác tranh thủ được sự ủng hộ của thế giới và đặc biệt là của
tổ chức thương mại thế giới WTO, khi chúng ta gặp phải những khó khăn, rào cản
và tranh chấp về thương mại quốc tế.
Năm là, phát huy tốt vai trò quản lý và
điều tiết của Nhà nước về thương mại.
Để phát huy đến mức cao nhất lợi thế so
sánh thương mại, thì điều quan trọng là phải có những con người quản lý có tri
thức mới về thương mại, cùng với những cơ chế, chính sách thương mại đúng đắn
phù hợp điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong thời kỳ mới và phù hợp xu
thế phát triển và hội nhập kinh tế – thương mại khu vực và thế giới. Do vậy, vấn
đề cốt lõi để thực hiện mục đích trên là phải nhận thức đúng đắn vai trò quan
trọng quản lý Nhà nước đối với thương mại trong nền kinh tế thị trường ở nước
ta. Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý kinh tế vĩ mô nói chung và quản lý
hoạt động thương mại quốc tế nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước
đóng vai trò là người định hướng chiến lược, quy định khung pháp luật, đề ra những
mục tiêu chung cho sự phát triển, công bằng, thống nhất điều hoà các quyền lợi
chung và cá nhân.
Nhận
xét
Nhìn chung các nước hiện nay, kể cả các
nước đã phát triển và các nước chậm và đang phát triển đều coi trọng việc kết hợp
giữa cơ chế thị trường tự do và sự điều tiết của Nhà nước trong quản lý kinh tế
thị trường để nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Đẩy mạnh phát triển thương mại và dịch vụ
quốc tế là xu hướng tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, nhất là các nước
đã phát triển; do năng lực sản xuất ngày càng lớn, cho nên luôn luôn ở tình trạng
thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất. Hoạt động thương mại quốc tế
ngày càng mở rộng và cạnh tranh thị trường thế giới ngày càng gay gắt là tất yếu.
Trong tình hình đó, để có lợi thế trong quan hệ
thương mại thế giới, chen chân được vào thị trường thế giới và bảo đảm không thất
bại thì nước ta cần có những chính sách thương mại quốc tế khôn ngoan, linh hoạt,
mềm dẻo, vừa phù hợp với điều kiện của nước mình, vừa phù hợp thông lệ quốc tế,
vừa đảm bảo luật pháp quốc gia, vừa đảm bảo luật lệ của "sân chơi" thị
trường quốc tế.
Ðể thực hiện nghĩa vụ thành viên WTO, Việt
Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh bạch và thông
thoáng hơn, ban hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để thực hiện các cam kết
đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng như các biện pháp cải cách
đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong
quá trình hội nhập.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét